Hội nhà văn Hà Nội

http://nhavanhanoi.vn


Nhà thơ TRÚC THÔNG trở về với mẹ nơi “bờ sông vẫn gió”

Bài: Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến
Nhà thơ Trúc Thông ( 1940 - 2021 )

                                                                                                          
      Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến

     Tin nhà thơ Trúc Thông qua đời 7h sáng 26/12/2021 được lan truyền trên mạng với chia sẻ khá xúc động của nhiều nhà văn, cho thấy sự ra đi của ông đã để lại nhiều tiếc thương trong lòng đồng nghiệp. Năm nay nhà thơ Trúc Thông 82 tuổi, sau một thời gian lâm bệnh nặng, trải qua hai lần bị tai biến mạch máu não trong vòng chục năm trở lại đây, ông phải sống trong sự chăm nom đặc biệt của vợ con.  Đã gần một năm rồi, nhà thơ Trúc Thông không rời khỏi giường, ông ăn trên giường, uống trên giường, ngủ li bì trên giường. Sau 13 năm ông bị tai biến, người vợ hiền vẫn lặng lẽ, bền bỉ chăm sóc ông và đây là những ngày cuối cùng trên thế gian của ông.   

     Nhà thơ Trúc Thông (tên thật là Đào Mạnh Thông), sinh năm 1940, quê Hà Nam, tốt nghiệp Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông về công tác tại Ban Văn nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu. Là một nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh giữ nước, ông đã để lại nhiều bài thơ ấn tượng. Các tác phẩm đã xuất bản của ông, gồm: Chầm chậm tới mình (thơ,1985); Ma-ra-tông (thơ, 1993); Một ngọn đèn xanh (thơ, 2000); Vừa đi vừa ở (thơ, 2005); Trúc Thông thơ (2014); Văn chương ngẫu luận (lý luận phê bình, 2003); Mẹ và em (bình thơ, 2006); Trúc Thông tiểu luận bình thơ (2013). Ông được trao nhiều giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội 1990 - 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2000, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000; Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2016. Bài thơ Cao Bằng trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 (tập 2) là một trong những bài thơ nổi tiếng của ông.

      Trong cuộc đời văn chương của tôi, có hai nhà thơ thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh đã trở thành người bạn tri âm khá thân thiết trong thi ca với tôi là Bế Kiến Quốc và Trúc Thông. Cách đây gần ba chục năm, ngôi nhà của gia đình nhà thơ Trúc Thông ở phố Hồng Phúc là nơi các nhà thơ thế hệ chúng tôi thường xuyên ghé qua, với những cuộc đàm đạo thi ca theo hướng đổi mới thơ đương đại. Tôi nhớ, trong một lần trao đổi về thi ca với các nhà thơ trẻ, Trúc Thông cười rất sảng khoái, bảo tôi: “Với mình, thi ca là một thứ Tôn giáo đặc biệt, “Con mắt thơ” của mình phải giống như một “con sói”, thấy một tứ thơ mới, một câu thơ mới là phải vồ ngay, phải ngấu nghiến ngay, cậu thấy mình có giống một con sói không?”. Quả thực lúc ấy, tôi cảm thấy Trúc Thông đúng là một “con sói thơ” với vẻ ngạo mạn đáng yêu, đầy dũng mãnh khi ông luôn luôn đứng về phía những nhà thơ trẻ để phát hiện những tố chất thơ mới của những “con sói trẻ” vừa thức giấc trong cánh rừng thi ca đương đại.

 Thời gian đó, trong không khí văn chương cởi mở, tôi cùng Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Đỗ Minh Tuấn, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Anh Thái, Trần Hùng, Hữu Việt…thường xuyên đến với Trúc Thông, đôi khi là để tranh luận với nhau về một tập thơ mới, một khuynh hướng mới trong thi ca cách tân, và khi ấy chúng tôi cảm thấy ông như một “ngọn cờ” cuả thế hệ trước đang khích lệ thế hệ nhà thơ sau năm 1975 dấn thân trên con đường cách tân thi ca. Thật ra, mỗi người thơ của thế hệ chúng tôi (cứ tạm gọi là có chút tài năng) đều có một tạng thơ riêng, một diễn ngôn thi ca của riêng mình và có lẽ, chẳng ông nảo chịu ảnh hưởng ông nào. Ngay cả khi ngồi đối thoại với “đàn anh thơ” Trúc Thông (người được coi là một ngọn cờ phụng sự thi ca như một Tôn giáo) thì cuộc khẩu chiến của mấy đàn em về các trường phái thi ca mới vẫn bừng bừng khí thế và không ít những ý kiến trái chiều nhau. Và, khi ấy, Trúc Thông với nụ cười hiền lành, bao dung lại phải đứng ra làm cuộc dàn hòa cho mấy nhà thơ đàn em sau cuộc khẩu chiến chưa có hồi kết về thi ca cách tân.

    Trong số các nhà thơ thuộc thế hệ những năm 70 của thế kỷ trước, có lẽ đến hôm nay, Trúc Thông là một trong số ít các nhà thơ của thời “cận đại” còn đối thoại được với những tìm tòi- cách tân của các cây bút trẻ “đương đại” hôm nay. Vốn là một nhà thơ từ xưa đến giờ luôn nổi tiếng vì sự khắt khe, đòi hỏi ở chính mình cũng như những người làm thơ khác (nhất là những cây bút trẻ) một nỗ lực mới cho nền thơ đương đại của chúng ta, Trúc Thông và thơ của ông dường như không bao giờ chịu cũ, không khi nào chịu già, không bao giờ chịu dừng lại và thôi tìm tòi, thể nghiệm. Những người viết trẻ thường tìm đến với ông như một tấm gương của sự tận tuỵ phụng sự thi ca như một tôn giáo.

    Gần gũi với nhau, tôi mới biết, tuy là một người rất khe khắt, đòi hỏi thơ phải luôn mang lại cái mới và không được nhàm cũ, nhưng Trúc Thông không phải là một người giáo điều trong thi ca. Trong tập thơ đầu tay của tôi “Mưa lúc không giờ” in năm 1992 (tại NXB Hội Nhà văn) có một bài thơ tôi viết tặng Trúc Thông với tứ thơ “Những cỗ xe” như sau:

Những cỗ xe đi qua thế giới
Chở tình yêu và chiến tranh
Trên những bánh tròn
Chở sách và thực phẩm cho chúng ta
Trên những bánh tròn
 
Còn anh chuyển thơ của mình đến với mọi người
Trên chiếc bánh vuông
Qua vòng lăn đầy cạnh góc
Từ xứ sở nươc mắt
Tới cánh đồng hoa
 
Con đường thi ca
Những chiếc bánh vuông gồ ghề
Lăn đi cùng anh
Qua chân trời của nỗi đớn đau
Cùng niềm thông cảm
Trên con đường khó nhọc
Đi tới ngày mai

Qua bài thơ trên, tôi muốn nói về hành trình đổi mới thi ca cách đây ba chục năm là con đường rất khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo không biết mệt mỏi của mỗi một người thơ giầu ý chí như Trúc Thông và thế hệ chúng tôi.

  Thật thú vị, sau đó, trong bài viết về tập thơ “Mưa lúc không giờ” của tôi đăng trên báo Văn Nghệ, nhà thơ Trúc Thông đã hóm hỉnh nhận xét: “Trước một bầu nhiệt năng thơ luôn luôn táp vào người nghe và đọc, với một nghệ thuật đã vào loại chững chạc khoác áo thi đấu như Nguyễn Việ Chiến, mình cần chìm xuống, dương cao tai, lim dim như một con sói! Khỏi phải nói “sung sức”, “năng động” với một người sản xuất trên hai chục năm nay hàng chục trường ca mỗi cái vài trăm câu, còn hàng vài ki-lô thơ ngắn các loại thể. Chỉ mong muốn được Nguyễn Việt Chiến “nện” những cú thơ đổi mới với chính anh, theo kiểu của anh. Để bạn đọc thơ buộc phải “nhớ đời”…”.

 Có thể nói, với nhiều nhà thơ trẻ thuộc thế hệ sau 1975, Trúc Thông thường đọc thơ họ khá kỹ và có những nhận xét khá chí tình và thâu đáo như vậy.

   Qua những tập thơ đã tin của Trúc Thông, tôi cho rằng trong mỗi bài thơ của mình, ông đều cố gắng đưa vào một nén kiến trúc mới, hoặc một phát hiện mới, hoặc một ý tưởng mới…khiến chúng ta đôi khi phải kiểm tra lại các giác độ “thưởng ngoạn” thơ hiện đại của chính mình. Bởi dường như ở dưới tầng ngôn ngữ, câu chũ hạn hẹp ấy có một dòng chảy đời sống đang nhắc nhở chúng ta về nỗi đau của cuộc chiến tranh khốc liệt đã đi qua và những lo âu, trăn trở trong đời sống con người hôm nay.

 Thơ của Trúc Thông không phải là thứ thơ để ngâm nga, diệu vợi mà là thứ thơ phải đọc bằng mắt, bằng văn bản, bằng sự trải nghiệm của con người trước nỗi đau: “Các em đã lớn ở Đông Hà/ chắc chắn trong vòng tay hạnh phúc/ ai vừa khen con gái Quảng Trị da trắng tóc dài/ anh nhớ mùa hè 1972/ o giao liên cụt tay dẫn anh đi/ da xạm/ anh nhớ đêm rất đen/ bỗng hở chân trời/tràn đổ lân tinh…rền rền bom nổ/ khi ấy vượt sông Thạch Hãn trở về/ mấy người lính vùi vào giấc ngủ/ rất dịu dàng đằm thắm các em/ nhưng mà anh vẫn nhớ…”. Bài thơ trên như một đoạn phim quay chậm và diện mạo đời sống hàng ngày cứ đi vào thơ ông một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, không cần vẽ vời bằng một thứ cảm xúc khác. Và phải chăng, khi tìm tòi- cách tân đến tận cùng thì thơ đương đại lại trở về với sự giản dị, hàm súc vốn là một trong những giá trị muôn đời của thi ca.

  Là một nhà thơ kiệm lời, đôi lúc hơi cực đoan, ta thấy Trúc Thông muốn từng con chữ phải chở được một ý tưởng, một thông tin thơ nào đó đã được mã hóa bằng cảm xúc, bằng ấn tượng như kiểu những câu thơ sau: “Nhà thơ ơi/ dịu dàng ngọn gió/ anh đi qua những bức tường/người ta nhìn rõ bóng anh qua/ ôi áo ngực gày/ máu rỏ vài ba chữ/ và người ta điên cuồng đuổi theo/ tận thẳm cùng bóng tối/ xa, xa mãi/ trăng trắng mười lăm dòng ‘ Rồi:  ‘Ngựa chưa hý lên tiên tri mới/Còn quẩn quanh gậm cỏ hoàng hôn/Thị trấn đã đi qua cơn đói/Những bán buôn vụn vặt/Năm xu /Một hào/ Những gì mất/Sẽ trồi lên/ Cho đến cả mối tình đã chết”. Diện mạo đời sống hàng ngày đi vào thơ Trúc Thông một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, không cần vẽ vời bằng một thứ cảm xúc khác: “Quê hương như ghè rượu/ ta say/Quê hương nhìn bằng mắt các em/ còn trong áo rách”.Hay: “Phận  hèn/ cắp thúng/ “bánh mỳ đây…”/ trong đoàn ca dao hoa hậu xưa/ đây là câu bị gạt ra lề/ vì phận thấp”.

      Tôi còn nhớ, sau lần Trúc Thông bị tai biến mạch máu não lần thứ nhất, khi tôi đến thăm ông, Trúc Thông chỉ cười lặng lẽ nhìn tôi, không nói được gì vì di chứng của tai biến làm méo giọng. Nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi thấy trên gương mặt đau yếu của ông, vẫn ánh lên tia nhìn của một hồn thơ khỏe khoắn, không chịu đầu hàng tuổi già và bệnh tật và quả thật, ông đã cầm cự được hơn chục năm cho đến hôm nay. Và, tôi bất giác nhớ tới bài thơ lục bát rất nổi tiếng “Bờ sông vẫn gió” viết tặng mẹ của ông: “Lá ngô lay ở bờ sông/Bờ sông vẫn gió người không thấy về/Xin người hãy trở về quê/Một lần cuối…một lần về cuối thôi/Về thương lại bến sông trôi/Về buồn lại đã một thời tóc xanh/Lệ xin giọt cuối để dành/Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha/Cây cau cũ, giại hiên nhà/Còn nghe gió thoảng sông xa một lần/Con xin ngắn lại đường gần/Một lần…rồi mẹ hãy dần dần đi”.

  Bài thơ trên của Trúc Thông được giới phê bình văn học coi là một trong những bài thơ hay nhất viết về mẹ trong thi ca Việt Nam hiện đại. Vậy bài thơ được đánh giá là thành công nhất của Trúc Thông lại là một bài thơ viết theo thể lục bát truyền thống chứ không phải hàng trăm bài thơ viết theo lối tự do, cách tân của ông. Và, đến hôm nay, khi phải giã biệt cuộc đời này để trở về với mẹ, nhà thơ Trúc Thông vẫn như đứng trên bờ sông vẫn gió của thi ca với những bài thơ còn đọng lại trong tâm hồn hàng triệu người đọc.

                    

Nguồn tin: HNV

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây