ẤP CẦU ĐEN - Đồi cháy ngày ấy

Thứ ba - 06/05/2025 19:15
Một góc thôn Sậu (ấp Đồi Cháy xưa), nơi nhiều văn nghệ sĩ đã sống trong những năm kháng chiến chống Pháp. Ảnh: tờ Thời nay
Một góc thôn Sậu (ấp Đồi Cháy xưa), nơi nhiều văn nghệ sĩ đã sống trong những năm kháng chiến chống Pháp. Ảnh: tờ Thời nay
 


    Lê Hữu Tỉnh
                                                                                 

   “Đồi Văn hoá kháng chiến” ở xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang - một di tích lịch sử văn hoá cấp Tỉnh, xưa được gọi là “ấp Cầu Đen” hoặc “ấp Đồi Cháy”, là nơi nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng về hoạt động, sáng tác phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây được coi là “làng văn nghệ sĩ kháng chiến”, là biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần cách mạng của các văn nghệ sĩ thời ấy.

 

     Từ ấp Cầu Đen đến Đồi Văn hoá kháng chiến

   Ấp Cầu Đen gần thị trấn Nhã Nam, thuộc địa bàn hoạt động mênh mông rừng núi của nghĩa quân Yên Thế năm xưa, tiếp giáp tỉnh Thái Nguyên lân cận.

   Vào những năm 1946 - 1947, đây là một khu đồi xa khuất, thưa thớt sim mua cỏ dại, đất đai cằn cỗi, dăm bảy nóc nhà của người dân ngụ cư mới đến ở. Gần đó có cây cầu được sơn bằng hắc ín đen sì, nên người dân quen gọi là ấp (xóm) Cầu Đen. Cái tên “Cầu Đen” nghe ấn tượng, gợi một cái gì đó lầm lụi. Ven đồi, có con suối nhỏ róc rách đêm ngày, cũng được gọi là suối Cầu Đen. Đất ở khu đồi hoang vu này đỏ quạch, rặt một loại sỏi son màu lửa, như những đám cháy nham nhở, nên còn được gọi là “ấp Đồi Cháy”. Địa danh “Đồi Cháy” gợi liên tưởng trưa hè nắng nóng, khu đồi như một quầng lửa ngùn ngụt bốc cao. Xưa khu đồi này còn có tên là “ấp Kí Nhàn”. Chả là có ông Nhàn ở Phủ Lạng Thương, làm thư kí cho một chủ đồn điền người Pháp, lên đây mua ruộng, lập ấp, phát canh thu tô…

   Như vậy, vùng đất này vốn chẳng liên quan gì tới văn chương nghệ thuật, mà thuần tuý chỉ là một địa điểm tản cư của các văn nghệ sĩ thời ấy. Đầu năm 1947, rời “Hà Nội cháy, khói lửa rợp trời. Hà Nội ầm ầm rung…” (1) trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, nhiều văn nghệ sĩ gồng gánh cả gia đình, cả mẹ già con nhỏ lên mảnh đất Cầu Đen này. Có mặt những ngày đầu là hai gia đình nhà văn Nguyên Hồng và nhà văn Kim Lân. Sau đó là gia đình nhà văn Ngô Tất Tố, các họa sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn, nhạc sĩ Đỗ Nhuận… Sau này là một số văn nghệ sĩ khác, hoặc ở lâu, hoặc chạy đi chạy lại, nay Cầu Đen (Bắc Giang) mai Gia Điền (Phú Thọ) (2). Đó là các văn nghệ sĩ: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tú Mỡ, Nam Cao, Vân Đài, Anh Thơ, Như Phong, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu…  

   Mỗi gia đình văn nghệ sĩ được cấp một mẫu đất quanh khu đồi để trồng trọt, tự túc tự cấp. Ngô khoai sắn là “trường ca” bất tận, ngày ngày “tái bản”. Nhà ở của các gia đình thấp tè, tường đất, mái rạ. Sân đất lầm bụi khi gió cuốn. Tối đến tù mù leo lét đèn dầu. Hàng ngày, xuống suối Cầu Đen ở chân đồi “cõng” nước về dùng… Cuộc sống gian lao, vật chất thiếu thốn, ở ăn thanh đạm nhưng ấm áp niềm vui, sự sẻ chia, đùm bọc. Ấp Cầu Đen đông vui dần lên, rồi thành xóm, thành “làng văn nghệ sĩ kháng chiến” bấy giờ.

   Trong điều kiện gian khó đến vậy, các văn nghệ sĩ vẫn lao động hết mình với tinh thần người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ. Nhà văn Nguyên Hồng tham gia biên tập tạp chí Văn nghệ số đầu, phụ trách “Trường Văn nghệ nhân dân Việt Bắc” và sáng tác nhiều tác phẩm tại mảnh đất này, như “Ấp Đồi Cháy”, “Đất nước yêu dấu”, “Đêm giải phóng”, “Địa ngục và lò lửa”... Trong đó, bài kí “Ấp Đồi Cháy” nóng hổi, tươi ròng sự sống, tràn đầy niềm tin yêu cách mạng.

   Nhà văn Kim Lân miệt mài sáng tác và cho ra đời một số tác phẩm, như “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”, “Xóm ngụ cư”... Thật thú vị khi được biết, hầu hết tác phẩm có giá trị trong “văn nghiệp” của nhà văn Kim Lân đều ra đời từ mảnh đất cằn khô sỏi đá này, vào những năm tháng gian nan nhất. Đây là thời kì thăng hoa rực rỡ trong cuộc đời cầm bút, trong sự nghiệp sáng tạo của nhà văn.

    Còn bài thơ “Phá đường” của nhà thơ Tố Hữu, tuyên truyền cho chủ trương “Tiêu thổ kháng chiến”, phá đường để chặn bước của kẻ thù, cũng được viết tại mảnh đất Cầu Đen - Đồi Cháy này.

   Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là những suy tư sâu xa về một đất nước “khổ nhục nhưng vĩ đại” (3). Bài thơ được khởi thảo năm 1948, cũng trên mảnh đất Cầu Đen này.

   Nhà văn, nhà báo, dịch giả Ngô Tất Tố vừa đảm nhiệm “Chi hội trưởng Chi hội văn nghệ Việt Bắc”, uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, vừa sáng tác, dịch thuật, cho ra đời một số tác phẩm như “Buổi chợ trung du”, “Anh Lạc”, “Quà Tết bộ đội”, “Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác” và một số tác phẩm dịch. Ông sống và làm việc trong ngôi nhà đơn sơ, cùng sự quây quần ấm áp của gia đình tại xóm ấp Cầu Đen. Năm 1954, trước ngày hoà bình vài tháng, nhà văn Ngô Tất Tố đã đi xa, cũng tại mảnh đất này.

   Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng bấy giờ đảm trách chức Uỷ viên thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, Thư kí toà soạn tạp chí Văn nghệ với bộn bề công việc, bài vở. Các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng thời kì này gồm các kịch bản “Những người ở lại”, “Anh Sơ đầu quân” và mấy chương đầu của tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”. Các nhà thơ Tú Mỡ, Anh Thơ, nhà văn Trần Đăng… cũng có một số tác phẩm được viết tại đây.

   Các hoạ sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn miệt mài vẽ tranh cổ động kháng chiến, tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho quân và dân ta.

   Làng văn nghệ sĩ kháng chiến tại ấp Cầu Đen những năm tháng gian nan nhưng hào hùng này luôn sôi động. Vượt lên những gian khó của cuộc sống đời thường, các văn nghệ sĩ đã lao động sáng tạo hết mình, đã tham gia kháng chiến bằng chính những tác phẩm của mình. 

   Làng văn nghệ sĩ kháng chiến tại ấp Cầu Đen sau này được gọi bằng cái tên mộc mạc, thân thương, nhiều ý nghĩa: “Đồi Văn hoá kháng chiến”.

 

    “Đồi Văn hoá kháng chiến”: Sự thăng hoa của lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của các văn nghệ sĩ

   Đến thăm khu “Đồi Văn hoá kháng chiến” tại ấp Cầu Đen, nay thuộc xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, Bắc Giang; tìm hiểu về cuộc sống sinh hoạt đời thường và những hoạt động tham gia kháng chiến theo tinh thần “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (lời Hồ Chủ tịch) của các văn nghệ sĩ trong những năm tháng gian khổ nhưng hào hùng, tôi cứ ngẫm ngợi hoài. Động lực nào khiến các văn nghệ sĩ thời ấy đã lựa chọn, đã hành động như vậy? Động lực nào thôi thúc bước chân của họ, để có thể ròng rã đi bộ, vượt rừng, băng suối, lại còn gồng gánh cả gia đình cùng đi… từ các thành phố về với mảnh đất Cầu Đen xa khuất này? Động lực nào tiếp sức cho họ, để có thể bằng đôi chân dẻo dai của mình, nay ở Cầu Đen (Bắc Giang) mai ở Gia Điền (Phú Thọ) làm các công việc văn nghệ kháng chiến?... Chỉ có thể lí giải, trước hết, đó là tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc của họ. Trong bối cảnh đất nước vừa giành được độc lập, lại phải đối mặt với nguy cơ bị tái chiếm, lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc đã thôi thúc các văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến. Họ nhận thức rõ rằng: độc lập tự do là ưu tiên hàng đầu. Mỗi người dân đều phải đóng góp sức lực của mình vào cuộc kháng chiến thiêng liêng ấy.

   Cạnh đó, không thể không nói tới vai trò, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng cam go này. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19 - 12 - 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là mệnh lệnh chính trị, mà còn là lời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

   Thêm nữa, cũng phải nói tới khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ. Các văn nghệ sĩ muốn ghi lại những hình ảnh, câu chuyện, tinh thần… của cuộc kháng chiến qua các tác phẩm nghệ thuật của mình. Đây là cách họ lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau những giá trị tinh thần và lịch sử của dân tộc. Nhiều văn nghệ sĩ thời kì này mong muốn tạo ra một nền nghệ thuật mới - nghệ thuật cách mạng, phản ánh chân thực cuộc đấu tranh của dân tộc. Họ tin rằng nghệ thuật có thể trở thành vũ khí tuyên truyền mạnh mẽ, góp phần vào chiến thắng của cuộc kháng chiến.

   Cuối cùng, là ý thức đồng cảm và chia sẻ với nhân dân của các văn nghệ sĩ thời ấy. Các văn nghệ sĩ bấy giờ dù xuất thân ở nhiều tầng lớp khác nhau, nhưng đều có chung một lòng cảm thông sâu sắc với cuộc sống gian khổ của quân và dân ta trong thời chiến. Họ thấy cần phải hoà mình vào cuộc sống ấy, chia sẻ và phản ánh nó qua các tác phẩm của mình để tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho nhân dân và các chiến sĩ ngoài mặt trận.

   Tất cả những điều trên đã tạo động lực, đã thúc đẩy các văn nghệ sĩ đến với địa chỉ văn hoá này, đồng hành cùng nhân dân trong cuộc kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng bấy giờ.

   Vì vậy, có thể coi “Đồi Văn hoá kháng chiến” ấp Cầu Đen thời ấy là một biểu tượng cho sự thăng hoa của lòng yêu nước và tinh thần cách mạng của các văn nghệ sĩ tiền bối. Các bài văn, bài thơ, bài hát, tranh cổ động… được sáng tác tại đây không chỉ phản ánh thực tế cuộc sống kháng chiến, mà còn thổi bùng lên lòng yêu nước và ý chí chiến đấu của toàn dân.

 

      Ngôi nhà của nhà văn Nguyên Hồng - hình ảnh quý giá còn vương sót lại

  Nhà văn Nguyên Hồng là hình ảnh tiêu biểu cho sự dấn thân của giới văn nghệ sĩ trong cuộc kháng chiến thiêng liêng bấy giờ. Ông là một trong những nhà văn có mặt đầu tiên ở mảnh đất Cầu Đen vào năm 1947, góp phần đặt cơ sở đầu tiên cho địa chỉ văn hoá này và ông đã dành trọn phần đời còn lại của mình gắn bó sâu nặng với mảnh đất này. Gia tài văn học đồ sộ của ông, cũng chủ yếu ra đời tại đây.

   Đến thăm di tích “Đồi Văn hoá kháng chiến” ấp Cầu Đen bây giờ, du khách thấy có gì cảm khái và ít nhiều hụt hẫng. Diện mạo của “làng văn nghệ sĩ kháng chiến” xưa, nay hầu như không còn dấu tích, ngoài ngôi nhà của nhà văn Nguyên Hồng. “Ngôi nhà di sản” này vẫn toạ lạc ở vị trí được xây cất từ năm 1947, và hiện nay trở thành nhà lưu niệm, có nhiều kỉ vật gắn với cuộc đời nhà văn. Cách đó không xa là khu mộ nhà văn Nguyên Hồng bên suối Cầu Đen. Đó là những di tích quý giá cần được bảo vệ, giữ gìn trong không gian văn hoá - lịch sử này.

   Ngôi nhà của nhà văn Nguyên Hồng giống như bao ngôi nhà ở một vùng trung du nghèo. Tường gạch đá ong, nền đất, mái ngói xi măng… Trong nhà tuềnh toàng, trống trải, vật dụng không có gì đáng giá. Trên bàn thờ, chân dung nhà văn đặt trang trọng, khói hương lặng lẽ lan toả. Giá sách cũ kĩ, những cuốn sách ố vàng. Bàn viết của nhà văn đóng bằng tre, quá đỗi giản dị. Ngoài vườn, cây khế ngọt trĩu quả, cây me trùm bóng xuống sân nhà. Một không gian làng quê mộc mạc, yên bình…

   Khu mộ nhà văn mộc mạc, nằm nép mình một cách khiêm nhường bên suối Cầu Đen, nước chảy êm đềm. Phía sau là những vạt đồi bạch đàn lá reo vi vút.

   Nhà văn Nguyên Hồng, quá nửa cuộc đời gắn bó với địa chỉ văn hoá Ấp Cầu Đen - “Đồi Văn hoá kháng chiến”, và khi nằm xuống, vĩnh viễn đi xa, cũng trên mảnh đất này.

 

   Một dự án được mong đợi

   Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua, kể từ khi các văn nghệ sĩ tiền bối rời nơi đây về Hà Nội, “Đồi Văn hoá kháng chiến” ấp Cầu Đen - một di sản tinh thần, di sản văn hoá có giá trị, giàu ý nghĩa, tưởng sẽ dần phôi pha theo thời gian, mất dần dấu tích, rơi vào quên lãng. Nhưng may thay, được biết ngày 24- 12- 2018, lãnh đạo tỉnh Bắc Giang kí Quyết định công nhận “Đồi Văn hoá kháng chiến” ấp Cầu Đen là Di tích lịch sử- văn hoá cấp Tỉnh và ngày 14- 5- 2020, lãnh đạo tỉnh Bắc Giang kí phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng Khu di tích “Đồi Văn hoá kháng chiến” thuộc xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Mục đích của dự án là bảo tồn, phát huy giá trị của di tích. Nội dung của dự án là phục dựng lại hình ảnh một số ngôi nhà thời ấy tại vị trí các văn nghệ sĩ từng sinh sống và sáng tác (Hiện vẫn xác định được khuôn viên nhà ở của nhà văn Ngô Tất Tố, các hoạ sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn tại đây). Bảo tồn ngôi nhà của nhà văn Nguyên Hồng và phần mộ nhà văn cạnh suối Cầu Đen. Tạo dựng không gian tổng thể cho khu di tích, gồm khu đồi và suối Cầu Đen, khu nhà lưu niệm, hội trường, nhà lưu trú… với cảnh quan hài hoà, đẹp mắt.

   Khu di tích “Đồi văn hoá kháng chiến” được tái tạo, phục dựng xong, sẽ kết nối với các di tích gần đó: “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” ở thị trấn Nhã Nam, “Khởi nghĩa Yên Thế” ở thị trấn Phồn Xương, tạo nên một tổ hợp di tích lịch sử- văn hoá giàu ý nghĩa.

   Tôi có cảm nhận ý tưởng, kế hoạch đầu tư của Bắc Giang cho dự án “Đồi Văn hoá kháng chiến” là tương xứng, ngang tầm với giá trị tinh thần, giá trị văn hoá - lịch sử của di tích. Đó là một dự án nhiều ý nghĩa, giàu tính nhân văn. Chúng ta mong đợi kế hoạch phục dựng hình ảnh “Đồi Văn hoá kháng chiến” năm xưa, sớm thành hiện thực.

……………………………..

  1. Lời ca khúc “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi.
  2. Gia Điền thuộc huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ, cũng là nơi các văn nghệ sĩ kháng chiến sống và sáng tác.
  3. Chữ dùng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây