NamKau - “Một thể thức thơ mới được bởi cố nhà thơ Trần Quang Quý. Thơ ngắn, xúc tích và có sức nén về ngữ nghĩa, phép ẩn dụ sâu sắc cho phép độc giả dễ liên tưởng đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội từ thiên nhiên đến thân phận con người.
Trong dòng chảy của văn học sẽ đón nhận nó như sức bật dậy của luồng thơ mới, khó viết, đòi hỏi tác giả phải biết vận dụng các quy tắc và nắm biết việc gieo vần sao cho các nguyên tắc gieo vần ấy không bị khiên cưỡng. Thơ kén tác giả, kén độc giả nhưng một cách nhìn đa chiều NamKau ngắn, rất gần gũi với cuộc sống thường nhật, nhiều chủ đề để ta khai thác với sự sáng tạo con chữ sao cho gần gũi với con người mới có thị phần và sẽ định danh trong dòng chày văn học thi ca.
Song ngữ NamKau do nhà thơ Lôi Vũ Chủ nhiệm CLB và Nhà LLPB Đỗ Ngọc Yên - Cố vấn CLB quyết định chuyển thể từ tiếng Việt sang Anh với mục đích phục vụ đông đảo bạn đọc và từng bước tiếp cận ra thế giới. Tuyển tập THU NAMKAU gồm 225 bài thơ của 41 giả về chủ đề Mùa Thu, hy vọng cuốn sách sẽ sẽ đem đến cho công chúng một luồng gió mới trong thưởng thức thơ ca và sẽ để lại dấu ấn trong lòng độc giả…” - Trích Lời dẫn của Nhà thơ Lôi Vũ
Nhà Lý luận - Phê bình văn học Đỗ Ngọc Yên
Có thể nói đại bộ phận những người cầm bút làm thơ, nhất là các nhà thơ nổi tiếng đều ít nhất có một bài thơ viết về hoặc liên quan tới mùa Thu. Nói có sách, mách có chứng, xin bạn đọc bớt chút thì giờ ngó qua. Đầu tiên là bài Thu cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, vị anh hùng dân tộc của Việt Nam và danh nhân văn hóa thế giới. Tiếp theo là: Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Thu cô liêu của Văn Cao, Mùa Thu vàng và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Cây bàng cuối thu của Nguyễn Bính, Cuối thu của Hàn Mặc Tử, Thu rừng của Huy Cận, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Mùa thu tiễn em của Tế Hanh, Sang thu của Hữu Thỉnh, Ý thu và Tối mùa thu nhớ nhà của Lý Bạch, Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ…
Các bài thơ trên đều cùng thể loại thơ, nhưng được viết ở nhiều thể thức khác nhau như: Lục bát, song thất lục bát (còn được gọi là lục bát biến thể), tự do, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn, lục ngôn… và bằng các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Hán, tiếng Nôm và tiếng Việt.
Có lẽ trong các nhà thơ không ai ít nhất đã đọc một lần, thậm chí là thuộc một số bài thơ về mùa thu nổi tiếng như bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá) của Nguyễn Khuyến: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo/ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo/ Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được/ Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Bài thơ được tác giả viết ở thể thức Thất ngôn bát cú (Tám câu, mỗi câu bảy chữ) và viết bằng chữ Nôm.
Còn bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được viết ở thể thức Ngũ ngôn (mỗi câu năm chữ) và cả bài chỉ có chín câu và viết bằng tiếng Việt: “Em không nghe mùa thu/ dưới trăng mờ thổn thức?/ Em không nghe rạo rực/ hình ảnh kẻ chinh phu/ trong lòng người cô phụ?/ Em không nghe rừng thu/ lá thu kêu xào xạc/ con nai vàng ngơ ngác/ đạp trên lá vàng khô?”.
Chỉ từng ấy thôi chúng ta cũng đã có hai bức tranh Thu tuyệt mỹ mà ẩn chứa bao nỗi niềm của người làm thơ cũng như người yêu thơ.
Tất cả những bài thơ về mùa Thu của các nhà thơ lớn mà tôi vừa nói ở trên, cũng như hai bài thơ nổi tiếng mà tôi vừa trích dẫn, không có bất kỳ bài nào được viết ở thể thức thơ Namkau. Vì thế có một điều chắc chắn rằng thơ Namkau là một thể thức hoàn toàn mới do cố nhà thơ Trần Quang Quý khởi xướng và phát triển. Thu Namkau là tập thơ thứ ba của Câu lạc bộ (CLB) Thơ Namkau được viết ở thể thức này, sau hai tập Khúc dạo một con đường I và
II. Ở tập Thu Namkau gồm có 125 bài thơ của 41 tác giả ở khắp mọi miền của Tổ quốc được Tổ Biên tập và Ban Chủ nhiệm CLB chọn lựa kỹ càng và dịch sang tiếng Anh.
Và những thành quả rất đáng khích lệ
Ở tuyển thơ Thu Namkau các nhà thơ đã thực sự nắm bắt được yêu cầu của thể thức thơ mới, chủ động lập tứ, thay đổi giọng điệu và sáng tạo nhiều ngôn từ mới so với hai tuyển tập trước. Một số người đã mạnh dạn cho xuất bản tập thơ Namkau của riêng mình. Nhìn chung cả tập, các nhà thơ viết khá đều tay, chất lượng được nâng lên rõ rệt. Thậm chí theo tôi có một số bài hay về chủ đề mùa Thu.
Để có thể xuất bản được một tập thơ với một thể thức thơ mới và riêng về chủ đề mùa Thu là một cố gắng rất lớn của tất cả các thành viên trong CLB Thơ Namkau nói chung và Ban Chủ nhiệm nói riêng, rất đáng để chúng ta cùng tự hào.
Ai cũng biết rằng mùa Thu của đất trời chỉ có một. Nhưng cũng từ mùa Thu ấy, mà trong thơ nói chung và thơ Namkau nói riêng chúng ta được chiêm ngưỡng hàng trăm, hàng ngàn mùa Thu khác nhau. Mỗi nhà thơ có mặt trong tập Thu Namkau đã đem đến cho bạn đọc, công chúng yêu thích thơ Namkau những cái nhìn khác nhau về mùa Thu. Hay nói chính xác hơn, mỗi nhà thơ có một mùa Thu riêng cho mình, không ai giống ai. Đấy chính là sự kỳ diệu của thi ca. Và ở ngay trong một nhà thơ cũng có những cái nhìn và cảm nhận khác nhau về mùa Thu, tùy thời điểm và tâm trạng của nhà thơ khi sáng tác. Bởi lẽ ngoài mùa Thu của đất trời, còn có mùa Thu của lòng người.
Cố nhà thơ Trần Quang Quý, người khởi xướng và phát triển thể thức thơ Namkau có một cảm nhận độc đáo về mùa Thu đã đem đến cho bạn đọc một góc nhìn thật sự mới mẻ và mê đắm: “Mùa thu giặt những đám mây trắng/ phơi lang thang bầu trời/ vắt ngang gió một lườn sông sóng sánh/ …/ Trong rón rén bình minh chợt nhú/ ban mai vừa cởi cúc mùa thu!” (CẢM THỨC). Tứ thơ ảo (Cảm thức), nhưng giọng điệu và ngôn ngữ thơ rất thực và mới mẻ. Nghệ thuật kết hợp giữa thực và ảo đã tạo nên cảm xúc bất ngờ và thú vị.
Nhà thơ Lôi Vũ nhìn mùa Thu thật khác biệt. Nó giống như tình yêu của anh và em là một bài toán kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vốn thì anh bỏ ra, còn thặng dư thì em hưởng. Tuy nhiên trong thực tế đã có không ít rủi ro xảy ra, nên anh cần phải xem xét lại quyết định đầu tư của mình vào mùa Thu này: “Tôi thặng dư một mùa heo may/ Chừng chẳng đủ làm Tư bản Em ế trọn đời con chữ/ Kẻ trồng niềm tin mọc thặng dư như cỏ ngọt/…/ Vườn gió mồ côi linh khí nhạt ủ sao đồng chữ trổ mùa/ Chấn hưng, chấn hưng con chữ thoát phường cơ hội“ (THẶNG DƯ).
Nhà thơ Trịnh Quốc Thắng lại có một phát hiện mới, nhưng xem ra nó như là quy luật của muôn đời. Phàm những gì hợp với lẽ phải thông thường dễ làm cho người ta nhàm chán nhưng vẫn phải chấp nhận. Giống như tất cả mọi người trên thế gian này (trừ người Anh) khi tham gia giao thông đều phải đi bên phải đường, đi bên trái là ngược đường, vi phạm luật an toàn giao thông vậy. Có lẽ vì thế, khi ra đường thấy ai đi bên trái, mọi ánh mắt đều đổ xô vào nhìn, như một chuyện lạ vì nó không tuân thủ quy tắc của lẽ phải thông thường. Tuy nhiên, trong thế giới của thi ca, có nhiều khi cái “ngược đời” ấy lại đem đến cho bạn đọc những xúc cảm mới lạ, đầy thú vị: “Mùa Hè, bao nhiêu là ổi ngọt thơm vàng chín/Vẫn không ngon bằng ổi mùa Thu/ Ổi vườn bà nội ngon như mơ/ …/ Kỷ niệm bao giờ cũng đẹp/ Hay ổi ngon cứ phải trái mùa?” (ỔI MÙA THU).
Nhà thơ Đặng Quốc Việt lại nhìn đêm mùa Thu qua dáng vẻ tinh nghịch và hóm hỉnh trong bao la vũ trụ biến áo khôn lường của nó. Âu đây cũng là một cách nhìn mới lạ, tạo cho mùa Thu thêm sắc màu: Gió ngật ngưỡng rít điếu cày rặng thông/ Kim châm đóm, Đại Hùng tinh vục nước/ Chị Hằng len lén liếc Thần Nông/ …/ Vòi vọi Ngân Hà, Chức Nữ phơi xiêm cầu Ô Thước/ Chần chừ đỏ mặt hừng đông” (ĐÊM THU).
Khác với ba mùa còn lại trong năm là Đông, Xuân, Hè, mùa Thu thường mang theo vẻ kiêu sa của nó. Có phải vì đất trời như chiều lòng người hơn, nên tâm trí và xúc cảm của con người cũng gắn quện với mùa Thu hơn? Nhà thơ Đỗ Cầm đã có một liên tưởng khá thú vị qua cách nói riêng của mình. Thực chất là mẹ đã sinh ra em trong mùa Thu, nhưng vì đã có không ít người nhìn thấy những nét Thu trong em, vì thế nữ sĩ liên tưởng rằng chính người mẹ kính yêu của mình đã sinh ra mùa Thu: “Mẹ sinh con vào ngày Lập thu/ Gom hương muôn hoa cho mái tóc/ Gom dịu dàng đất cho nụ cười, thăm thẳm trời cho đôi mắt/ …/ Để khi nhìn con ai cũng ngỡ ngàng ngây ngất/ Mẹ đã sinh ra mùa thu” (MẸ ĐÃ SINH RA MÙA THU).
Đêm Trung Thu không chỉ có vầng trăng rằm tròn vành vạnh để các em nhỏ vừa vui chơi ngắm chị Hằng, vừa phá cỗ. Mà đôi khi có những đêm Trung Thu làm tim ta nhói đau khi những cơn giông lốc làm tốc mái ngôi nhà nhỏ thân yêu ở những làng quê nghèo khó của các em. Nhà thơ Dương Văn Lượng đã có một cái nhìn tinh tế, khi vầng trăng Trung Thu không tròn nữa, mà đã hóa thành vuông: “Đêm Trung thu trăng tròn/ Lồng lộng trên cao chiếu sang/ Trẻ con phá cỗ ngồi ngắm chị Hằng/ .../ Qua xóm nhà tranh chiều nay tốc mái/ Trăng vuông!” (TRĂNG VUÔNG).
Nữ sĩ Giang Đăng lại cảm thấy mùa Thu là một cái gì đó đầy sức hút mê hồn, khiến người thơ nhiều lúc như cảm thấy như mình bị chính mùa Thu dẫn dụ, đi lạc vào cõi mộng vô thường không tìm đâu lối thoát theo cái cách của riêng đàn bà: “Đậu tôi một giấc đàn bà/ Đêm thu hoang hoải những là mị mê/ Lao xao gió giũ hẹn thề/ Liêu trai lạc cõi phu thê lạ lùng/ …/ Thu mê bùa ngải vô chừng... (MỘNG THU). Thực ra không chỉ có nữ sĩ này đâu, mà phàm là đàn bà bị nghiệp thơ dẫn dụ, ai mà chả thế. Chỉ có điều Giang Đăng dám nói ra và biết cách nói hộ mọi người thôi.
Phạm Thị Hồng Thu đã có một tập thơ Namkau gồm 99 bài với tên gọi khá gợi: Vịn câu thơ... Tôi đã được đọc tập thơ này của chị và thấy tác giả viết khá đều tay và tỏ ra có duyên với Namkau. Chị mạnh bạo trong suy tư và ý tưởng, mới mẻ trong giọng điệu và sử dụng ngôn từ.
Trong chùm bài viết về chủ đề mùa Thu tham gia trong tuyển thơ Thu Namkau của chị, có bài mà tôi thích: “Hít căng lồng ngực/ Giang vòng tay siết chặt/ Uống bản đàn diệu huyền/…/ Say/ Hóa đá” (KHÁT THU). Tôi thích vì hai câu kết của bài thơ chỉ có 3 từ, nhưng thật bất ngờ. Người thơ không chỉ yêu, mến, thích thú mùa Thu, mà yêu đã đến độ khát. Nhưng như thế dường như vẫn còn chưa làm thỏa mãn hành trình viễn du trong thế giới thi ca. Từ khát đến mức say, rồi từ say đến hóa đá thì quả thực chỉ có ở những người phụ nữ như Hồng Thu mới có được.
Có lẽ mùa Thu là mùa dễ đem đến cho người ta, nhất là chị em phụ nữ sự khao khát và trỗi dậy của tình yêu, dù họ ở độ tuổi nào. Nếu quả thật là như vậy, thì nhà thơ Nguyễn Việt Hằng là người hiểu tâm lý phụ nữ hơn ai hết, hay nói đúng hơn là nắm bắt một cách chuẩn xác quy luật muôn đời của tạo hóa là như vậy: “Người đàn bà đang tuổi hồi xuân/Chạm vào thu ngỡ mình thời con gái/ Khát khao yêu cháy bỏng, nồng nàn/ …/ Cuộc đời, con người, tiết trời, tạo hóa/ Và tình yêu cứ xanh mãi ngàn năm” (TẠO HÓA). Nào ai dám bảo phụ nữ trung niên không cần tình yêu và không được quyền yêu?
Với Thanh Trắc Nguyễn Văn, mùa Thu hiện ra thật huyền diệu, bí ẩn trong khoảnh khắc mà ít ai có thể ngờ tới.
Đấy là lúc cô gái làm nghề lái đò trên sông. Cả ngày bận rộn chở khách để mưu sinh, nên đêm về cô mới có thời gian để tắm gội. Một bức tranh thiếu nữ tắm đêm không thể nào có thể đẹp và thi vị hơn, khiến dòng sông cũng trở nên huyền ảo hơn: “Khỏa thân tắm đêm/ Cô lái đò cài mảnh trăng vàng lên tóc/ Gió thu trở mình rạo rực/…/ Hương trinh nữ.../Dòng sông lung linh” (TẮM ĐÊM).
Theo tôi, xét trên mặt bằng thi ca cấp CLB ở nước ta hiện nay, tuyển thơ Thu Namkau là một điểm sáng rất đáng để mọi người chúng ta ghi nhận và tự hào. Điểm sáng ở đây được nhìn từ một vài khía cạnh như: Tập thơ chỉ sáng tác theo một thể thức mới duy nhất là Namkau và cũng chỉ về một chủ đề duy nhất là mùa Thu. Bên cạnh đó, đây là tập thơ song ngữ Việt - Anh đầu tiên và duy nhất cho đến thời điểm hiện tại trên diễn đàn của một CLB thơ.
Và điều đáng tự hào hơn nữa là chất lượng các bài thơ trong tập Thu Namkau khá đồng đều, đã được Tổ biên tập và Ban Chủ nhiệm CLB tuyển chọn kỹ càng ngay từ bản tiếng Việt.
Tuy nhiên, với một tuyển thơ của CLB, số lượng trang in có hạn, nên không thể làm thỏa mãn kỳ vọng của tất cả mọi thành viên. Cũng như việc chọn lựa bài của một vài tác giả để trích dẫn vào bài viết giới thiệu này dù sao cũng là ý kiến chủ quan của người viết bài, không thể nào“uốn lưỡi câu cho vừa miệng cá” được, mong
mọi người lượng thứ.
Đ.N.Y
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Trang thơ tháng Mười Một của nhiều tác giả
Hành trình tâm linh miền biên viễn - những chuyện lạ có thật
GIẬT MÌNH LƯƠNG THIỆN
TRANG VĂN TÌNH ĐỜI (*) những suy tư sâu sắc, những chia sẻ tin cậy, những tình cảm ấm áp về văn chương và sân khấu
GIANG ĐĂNG VÀ MONG MANH GIẤC CỎ
Công chúa Ngọc Anh - bể khổ kiếp nhân sinh
CÓ MỘT MÙA THU NHƯ THẾ
VỀ MỘT HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam hôm nay
THƠ MÙA THU - các Nhà văn nữ Hà Nội
LỜI TIÊN TRI
Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội: Đồng thuận - Đổi mới - Phát triển bền vững
RA MẮT WEBSITE VĂN NGHỆ NGHĨA LĨNH
ĐỌC THƠ CỦA MỘT LUẬT SƯ
Chuyện ở Trạm xá
GIAO LƯU THƠ QUỐC TẾ