Đôi điều về thơ Lục - Bát

Thứ năm - 03/04/2025 20:15

Đôi điều về thơ Lục - Bát



 Lê Hữu Bình

                                                               

          Lục bát là thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Có từ bao giờ và ở đâu là đầu tiên, cũng khó mà biết được chính xác. Thơ lục bát được dùng nhiều nhất trong các loại hình thơ hiện nay, trong ca dao hò vè đa phần cũng vận từ thơ lục bát. Chính vì vậy chúng ta đã đang tôn vinh lên làm Quốc thơ. Tuy nhiên được tiếp cận và theo dõi nhiều về thơ lục bát, vẫn thấy còn có một số trường hợp sáng tác thơ lục bát chưa được đúng về vần điệu niêm luật thanh âm lắm. Một số bài viết nói về kỹ thuật thơ lục bát thì lại quá dài, dàn trải... làm người đọc tuy hiểu nhưng khó nhớ. Và cũng có người chưa hiểu vần thông trong lục bát nên khi đọc thì lại bảo người ta sử dụng vần sai... Trong khi rất nhiều cây bút viết về thơ lục bát rất hay rất thâm sâu. Cũng xin mạo muội nêu ra một vài nguyên tắc niêm luật vần điệu của thơ lục bát như sau:

    I- THANH BẰNG, TRẮC:

          1. Các từ nhất thiết phải thanh bằng (Những từ có dấu Huyền và không dấu), vần trắc (Những từ có dấu: Nặng- Sắc- Hỏi- Ngã). Để dễ hiều, dễ nhớ người ta đưa ra một định nghĩa cho các từ ở hai câu lục bát như sau:

Bằng 2,6,8 trắc 4

Luật này phải đúng còn dư thì tùy.

Vậy là các từ thứ 2 thứ 6 và thứ 8 ở cả 2 câu lục bát nhất thiết phải thanh bằng.

        - Chắc chắn một nguyên tắc bất di đó là thanh bằng trong các chữ thứ 6 và thứ 8 ở câu bát nhất định không trùng dấu với nhau. Ví như chữ thứ 6 có dấu huyền thì chữ thứ 8 nhất định phải không dấu (vần ngang) và ngược lại.

         2. Từ thứ 4 ở cả 2 câu nhất định phải thanh trắc đó là nhịp 2/2 (2 từ xác định được một ý). Đây là nhịp cơ bản và dùng nhiều nhất trong lục bát. Ví dụ:

Trăm năm/ trong cõi/ người ta

Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau. (Kiều)

          Trường hợp tiểu đối hay nhịp 3/3 (3 từ mới điễn đạt được một ý) hoặc tên riêng không thể khác đi được. Thì chữ thứ 2 người ta vẫn dùng vần trắc mang tính điểm nhấn được (coi là phá cách), nhưng rất ít. Như: Người nách thước/ kẻ tay đao... Hoặc: Có cổ thụ/ có sen hồ (Kiều). Hoặc: Lục bát không thể bán- buôn/ Nếu ai nhớ đến cuội nguồn...(ca dao)

     Hoặc nhịp 3/5 ở câu bát:

              Rồi mai giã bạn anh về

     Nghe kẹt cửa/ lại nhớ tre rừng Lào (Phạm Tiến Duật).

             Còn có những nhịp khác nữa như 1/3/4: Vầng dương ngà ngọc người ta. Đây/ vành trăng vẹt/ mờ xa cuối trời. Hoặc: Ngọc vàng tắm bề trăng trong. Đẹp/ Lan đến mức/ Hải không dám nhìn (tr thơ Thúy Lan). Hoặc thường gặp nhịp 4/4 ở câu bát...v.v..  cũng đều phải tuân thủ luật về các thanh bằng, trắc...

            II- GIEO VẦN

    Đương nhiên vần của từ thứ 6 câu lục phải vần với từ thứ 6 của câu bát và từ thứ 8 của câu bát phải vần với từ thứ 6 câu lục, cứ thế liên tục nối đuôi nhau kéo dài cho đến hết bài, hết tác phẩm lục bát mới thôi.

             1. Vần chính

  Tức nguyên phụ âm của từ thứ 6 câu lục, trùng với nguyên phụ âm từ thứ 6 câu bát:

               Bầm ơi có rét không bầm

   Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn. (Bầm ơi)

      Chúng ta thấy từ bầm và thâm phần nguyên phụ âm của 2 từ này đều là âm (â là nguyên âm, m là phụ âm). Tóm lại vần chính thì ai cũng nhận ra, khỏi bàn.

              2. Vần thông.

         Trong trường hợp người ta không tìm được từ vần chính để ghép vần cho câu trên thì buộc người ta phải tìm tới vần thông. Hoặc có vần chính nhưng từ đó không đủ hay, mà vần thông hay hơn, ý nghĩa sâu sắc hơn thì người ta sẽ lấy vần thông để gieo vần, không phải một câu mà nhiều câu liền. Những chữ cuối của vần thông thường là các nguyên âm vì khi phát âm nó na ná gần như vần chính (lý giải phần này thì dài, nhưng thôi bởi lẽ bài viết muốn giới hạn ngắn gọn, mà ai đọc xong cũng dễ hiểu, tác nghiệp được ngay): A,O,Ơ,U,Ư,I,E... Ví dụ: Vực nàng lên ngựa tức thì/ Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong. (Kiều) rõ ràng 2 từ: Thì- Bề có các chữ cuối nguyên âm là I,E. Một khi 2 chữ cuối đã là vần thông thì phụ âm nối theo phía sau giống nhau cũng là tương thích vần thông. Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (ca dao) 2 từ vần thông ơn- uồn. Rút ra: IM- EM là thông còn IM- EN là không được vì phụ âm N khác phụ âm M. Hoặc: Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Kiều). Rõ ràng từ TRỜI, VÀI có phần nguyên âm kèm phía sau là ơi- ai hoàn toàn đúng luật thông. Hai câu tả muà xuân của cụ Nguyễn rất hay nhưng đó lại là vần thông. Nói về vần thông khi gieo vần cho thơ lục bát thì Nguyễn Du là bậc thầy, người sử dụng khá nhiều. Không phải cụ bí không tìm được từ vần chính mà thực thi ý đồ hẳn hoi, vì vần thông chứa cái hay riêng của nó. Đọc lần đầu nghe thấy tức tai một chút, nhưng đọc lại đôi ba lần thấy hay mà ấn tượng nhớ lâu. Mười mấy câu vần thông liền một lúc của cụ Nguyễn:

720: Tơ vương còn vướng mối này chưa xong

            Hở môi ra cũng thẹn thùng

Để lòng từ phụ tấm lòng với ai

            Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

           Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

           Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

           Sự đâu sóng gió bất kỳ

730. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

          Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non.. (Kiều)

         Nguyễn Du còn nhiều chỗ sử dụng liên tục 4-5 câu vần thông, như:

          Vội chi liễu ép hoa nài

Còn thân ắt sẽ đền bồi có khi

          Thấy lời đoan chính dễ nghe

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân...

         Đoạn tả Kim Trọng cứ muốn “ấy” trước Thúy Kiều nhưng nàng không cho. Hoặc câu vần thông rõ hay: Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san... Người về chiếc bóng năm canh/ Người đi muôn dặm một mình xa xôi (Kiều), các bạn để ý từ Bào và Màu, từ Canh- Mình vần thông rõ tinh tế. Mấy câu về vần thông rất đặc trưng trong Kiều khi tả sắc đẹp của Thúy Vân: Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Từ Vời- Ngài, Trang- Nhường khi chiết tự phía sau của mấy từ ấy ra ở 2 câu sau, ta có ANGƯỜNG (thấy rõ nguyên âm A phụ âm NG và nguyên âm ƯƠ, phụ âm NG đủ tố chất cấu thành vần thông trong luật vần thông của thơ lục bát). Qua đây chứng tỏ sử dụng vần thông nhiều hợp lý chứng minh khả năng kỳ tài của người thơ chứ không phải vì bí không tìm được vần chính phải lấy vần thông thế chỗ ép vần... Có thể kết đoạn này này như sau: Một khi phía cuối của một từ đã là nguyên âm, các nối tiếp sau dù mấy phụ âm chăng nữa mà giống nhau thì 2 từ đó cũng sẽ mặc định vần thông... Cũng không ai định rõ là trong một tác phẩm lục bát thì bao nhiêu câu vần thông là hợp lý? Theo tôi là tùy theo bài nhưng những tác phẩm có dung lượng lớn dài về số lượng câu, thì có thể vần thông chiếm quãng trên dưới 20%. Dựa các nguyên tắc trên, tôi đã dày công thống kê ra truyện Kiều có chừng 671 câu vần thông trong tổng số của Kiều là 3254 câu. Nhân đây có người cũng từng thống kê trong truyện Kiều sử dụng tới 131 từ Hoa, 100 từ Xuân60 từ Nỗi một con số lý thú. Vần thông có chiều sâu hay, len lỏi vào tâm tưởng người đọc một cách tự nhiên mới kỳ... Sở dĩ cứ lấy truyện Kiều ra làm dẫn chứng minh họa là dễ thuyết phục bạn đọc nhất. Giờ đây rất nhiều các bác các anh chị các em và các cháu làm thơ lục bát khá hay.

               Luc bát phải tuân thủ theo luật bằng trắc nhưng cách chọn từ gieo vần sao cho các chữ liên kết liên âm mềm mại giai điệu mượt mà có thần có hồn có nhạc là rất nên, thường dễ ở nhịp 2/ 2 còn ở vài nhịp khác tạo điểm nhấn là chính, nhưng rất ít. Từ là những từ ngữ đang sử dụng của thời đại mình đang sống, chọn lựa đưa vào thơ thì mới sống động thiết thực đảm bảo giá trị lâu dài. Câu từ, có chỗ là bác học nhưng cũng khi rất dân dã để tạo nên tính đa hoạt của bài thơ, khi trữ tình sâu lắng lúc bộc trực phủ phàng tất cả nhằm vun đắp cảm xúc mê hồn cho đọc giả. Ví như: Vầng trăng ai sẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dằm đường. (Kiều- rất bác học) Và: Vội vàng xuống lệnh ra uy/ Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng (Kiều- rất dân dã)...  Tuy nhiên cá biệt có người hiện nay chưa hiểu vần thông, lại cho rằng những câu lục bát như vậy là phạm luật là sai là ép vần, thật khí không phải. Cứ nguyên tắc cứng phải vần chính thì chúng ta làm sao có nổi những tác phẩm thơ lục bát dài và bất hủ?

             3. Vần trùng:

         Tức là từ thứ 6 của câu lục trùng với từ thứ 6 của câu bát: Hoặc chữ cuối câu bát trùng với chữ cuối câu lục. Đàn bầu ai gảy nấy nghe/ Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu. (ca dao). Hoặc: Người đâu trong ngọc trắng ngà/ Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây. (Nhị Độ Mai). Hoặc: Duyên kia có phụ chi tình/ Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai (Kiều). Trùng cả chữ cuối của câu bát và chữ cuối câu lục: Ấy hồn thục đế hay mình đỗ quyên/ Trong sao châu nhỏ duềnh quyên. (Kiều). Vần trùng rất ít dùng có thể nó chỉ chừng 0,1% trong tác phẩm thôi.

           - Đôi khi chúng ta vẫn gặp cặp câu, dạng lục bát cổ, biến thể (vô cùng ít) là từ cuối câu lục vần với chữ thứ tư câu bát, còn gọi là Vần lưng. Như: Trên trời mây trắng như bông/ Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây (ca dao). Nó không nằm trong các vấn đề như đã nêu, nên không lý giải sâu thêm

         - Cần tránh: Khi gieo vần thơ lục bát chúng ta nên tránh các từ thứ 6, thứ 8 ở câu bát cùng vần với nhau vì nghe không suôn sẻ, bí, không thoáng mở cho các câu, đoạn nối tiếp sau. Hiện tượng này gọi là Phong yêu. Với những tác phẩm lục bát lớn dài đồ sộ chắc là không tránh khỏi, nhưng các bài thơ ngắn chúng ta nên triệt để tránh, tuy không phạm luật nhưng không hay.

        -  Một vài bài lục bát, bẻ gãy từng đoạn ở các câu (thể hiện điểm nhấn, cái mới cách tân...), tôi nghĩ không hay lắm. Đã là lục bát thì câu trên phải 6 dưới phải 8, bẻ thành từng khúc đâu còn là thơ lục bát? Nên coi đó là dạng thơ tự do thì hợp hơn.

        - Cuối cùng thấy rằng: Một tác phẩm thơ lục bát hay (thường tác phẩm lớn dài) thì trong tác phẩm ít nhiều phải có, càng nhiều càng tốt với các cặp câu mang tính triết lý tinh hoa cưộc sống phù hợp bối cảnh thơ đang diễn tiến, những tình tiết lúc này cần phải giải trình qua cảm xúc. (chính là lúc xuất thần của chữ, từ ngữ hợp lý đến mức không thể có từ ngữ nào, ý nào thay thế được). Bởi nó thể hiển hiểu biết, khái quát lớn, đầy trải nghiệm của tác giả đối với các vấn đề xã hội, cuộc sống đang hiện hữu. Nội tâm con người đặc biệt phong phú song cũng phức tạp lắm. Qua thơ mà diễn đạt được ý này một cách cô đọng như nhân cách hóa, hình tượng hóa, ví von, ước lệ, lời tại ý ngoại... Ai đọc xong cũng thấy đúng thấy hay, thỏa đáng nghĩ suy của mình... Đấy chính là triết lý tinh hoa cuộc sống, những câu thơ chia sẻ tâm trạng đến hàng triệu con người: Cùng trong một tiếng tơ đồng/ Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm... Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.... Tình trong như đã mặt ngoài còn e. (Tr Kiều). Cũng xin mạo muội đưa mấy câu dạng này (trích ở tr thơ Thúy Lan đã đăng báo)  Ngấm ngầm kẻ nhiễu đứa nhương/ Bụng mong người bị miệng thương ra điều...Hầm hầm ra mặt bụng thường/ Cười cười giấu bực nọ lường hiểm nha.... Phức trong quan hệ đa bên/ Lắm khi khó phát nhờ tiền nói thay.

            Bàn về thơ lục bát thì dài lắm, lớn lắm, không thể một bài ngắn mà nói hết được. Biết một chút nho nhỏ về thơ lục bát, lại thấy không ít thi sỹ hay gặp phải vài trục trặc này, nên mạo muội đưa ra mấy tiêu chí chung vui cùng bạn đọc.

            
  LHB

Tổng số điểm của bài viết là: 8 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 4 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây