Nhà thơ PHAN HOÀNG
Từ mùa thu 2020, tôi đã được đọc những bài thơ 1-2-3 đầu tiên của Phạm Thị Hồng Thu đăng trên Văn Học Sài Gòn. Hợp cùng các bạn thơ Bùi Thanh Hà, Phạm Thị Phương Thảo, Vũ Trần Anh Thư, Bảo Ngọc, Đỗ Quảng Hàn, Lê Kim Phượng, Nguyễn Duy Chung, Đỗ Thu Hằng, Giang Đăng,… Phạm Thị Hồng Thu trở thành một trong những tác giả ở Hà Nội sớm sáng tác thơ 1-2-3 và luôn giữ nguồn cảm hứng mạnh mẽ với thể thơ mới thuần Việt này.
Người cha từ Tuy Hòa, Phú Yên tập kết ra Bắc thời chiến tranh, chinh phục người đẹp xứ Nghệ mà kết quả là Phạm Thị Hồng Thu được sinh ra ở quê mẹ thành Vinh. Theo học ngành sư phạm làm cô giáo, về sau sống ở Hà Nội, điều đáng quý là hầu như năm nào Hồng Thu cùng gia đình cũng về thăm quê cha, nhất là vào dịp xuân về tết đến. Là người thích xê dịch, khi có thời gian bước chân của nữ sĩ lãng du khám phá khắp trong và ngoài nước, từ châu Á sang Âu và xuống tận Nam Mỹ. Đến đâu chị cũng dạt dào cảm hứng viết những chùm thơ 1-2-3 như một thứ nhật ký bằng thơ rất thú vị.
Nhận được bản thảo tập thơ Thị à thị ơi, tôi tưởng Phạm Thị Hồng Thu tập hợp từ hàng trăm bài thơ 1-2-3 đã từng đăng trên các diễn đàn báo chí truyền thông. Nhưng đọc một mạch tôi thật ngạc nhiên khi đây là một tập thơ hoàn toàn mới, dường như chưa có bài thơ nào từng đăng tải. Có lẽ chị ủ kín và muốn trình làng tác phẩm một cách bất ngờ. Từ tâm thế, diễn ngôn đến thi tứ, thi ảnh trong tập thơ hoàn toàn mới lạ, không còn ngô nghê ngôn từ, du dương vần vè gượng gạo như những bài thơ đầu tiên của chị.
Hình ảnh người phụ nữ thông qua nhân vật “thị” xuất hiện xuyên suốt tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu vừa có tính độc lập trong từng bài vừa có tính kết nối trong toàn tập như bản trường ca về thân phận người đàn bà trước bộn bề, đa đoan, phức tạp, giông bão cuộc đời. Một bản trường ca buồn và đẹp được viết bằng tâm thế, góc nhìn, cảm nhận tinh tế, trìu mến, chia sẻ và bao dung. Tiếng nói nữ quyền tự tin tự tại cất lên, làm bệ phóng cho nhà thơ dựng nên những bài thơ khác biệt.
Bài thơ về trăng ấn tượng mở đầu tập thơ Thị à thị ơi. Không phải ánh trăng mà là giọt trăng. Giọt trăng hay giọt lòng “Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát”. Giọt trăng như những giọt nước mắt thánh thót báo hiệu sự nổi chìm, ngọt đắng, thăng trầm của kiếp hồng nhan. Và chẳng phải con người hiện tồn xương thịt mà bắt nguồn bằng “Cảm giác là lạ, nhột nhột gáy/ Dưới hiên nhà có ánh mắt cười say” từ thế giới vô hình mang tâm thức hiện sinh “Duyên trời định khéo thay” để cất tiếng nữ quyền. Duyên trời định hay tự thân con người tìm đến nhau thì cái đích cuối cùng cũng để mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, thế gian này cái gì cũng có hai mặt, và song hành với sướng vui hạnh phúc luôn là đau buồn bất hạnh, mà bi kịch có khi bắt nguồn chính từ tiếng sét ái tình:
Không ẩn dụ bóng bẩy như bậc tiền bối lừng danh Hồ Xuân Hương, ý thức nữ quyền trong thơ Phạm Thị Hồng Thu là tiếng nói trực diện. Trực diện trong mơ hồ day dứt. Trực diện trong ngơ ngác đớn đau. Tình yêu đắm đuối làm cho con người mù quáng. Khi bị bão giông bủa vây tứ bề thì đành “Ngậm bồ hòn làm ngọt” trong đau đớn khôn cùng: “Dựng tóc gáy// Nỗi ớn lạnh ngấm sâu vào tiềm thức/ Thị sợ hắn như người yếu bóng vía sợ ma/ Trở mặt nhanh hơn trở bàn tay/ Khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin ngây thơ mù quáng đã vào dĩ vãng”. Để được thức tỉnh thì cái giá phải trả quá lớn. Và rồi có cố “Vùng dậy thoát ra” thì người phụ nữ chưa chắc được an toàn mà lắm lúc lại bị “nuốt chửng” bởi không gian tăm tối thảm họa chờ chực:
Không dừng ở đó, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu còn chỉ ra: “Áp lực người nối dõi quất vào đời thị// Cái nguýt của mẹ chồng băm nát trái tim/ Thị để lại tờ đơn lặng lẽ ra đi”; “Ma men// Lời thốt ra mật đắng/ Hành động băng hoại”; “Thị biết hắn dấm mẻ/ Về nhà cả vú lấp miệng em”; “Mấy chục năm thị chỉ là vợ trên giấy/ Địa ngục trần gian nếm đủ”. Và cả nỗi đau vì con cái đè nặng trái tim bất lực của người mẹ:
Giọt nước mắt nóng hổi cũng chính là giọt trăng lặng lẽ trên gương mặt người mẹ bất hạnh. Đau vì con trai sa ngã. Đau vì con dâu hư đốn: “Cô gái hiền lành chân chất/ Ra thành phố bỗng rũ sạch quê nhà” nông nổi chạy theo tiền bạc dục vọng. Và đau vì sự tật nguyền, mất mát của đấng sinh thành:
Từ những hiện tượng bên ngoài, tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ chiếu rọi cả khuyết tật tâm hồn, cất được tiếng nói thiện lương, mà “Danh vọng và quyền lực” như thứ ma túy gây nghiện hủy hoại nhân phẩm:“Thị khao khát, si mê/ Sức hút quái đản không cưỡng nổi// Tài mọn, tiền vặt/ Thị gặt hái ước mơ bằng vốn tự có/ Độc.”. Lẽ tất nhiên điều ấy đưa con người ta tới đường cùng: “Thị ngập trong bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát/ Ý nghĩ tiêu cực hoành hành”.
Phản ánh mặt trái khuất tất. Không né tránh, không đồng lõa cái ác. Soi thấu kiếp hồng nhan lênh đênh lận đận. Tâm thức nữ quyền còn giúp cảnh tỉnh, mở đường giúp cho người phụ nữ vượt thoát mà tình yêu thương chính là thần dược:
Cùng với tình yêu con người và thiên nhiên, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu cho thấy thi ca thêm lần “cứu cánh” nhiệm mầu. Không mang lại thức ăn nước uống cho cơ thể nhưng thơ là món ăn tinh thần, điểm tựa vô hình kỳ diệu để vượt lên số phận tìm đến sự an nhiên trong tâm hồn, tự khám phá vẻ đẹp hiện hữu bản thể chính mình mà tạo hóa ban tặng. Đó cũng là bài học, thông điệp mà nữ sĩ Phạm Thị Hồng Thu tự khám phá và gửi đến những bạn đồng giới đồng hành trong cuộc sống đầy bất trắc nhưng cũng chất chứa bao tình yêu khát vọng khi ý thức được nữ quyền trước quy luật tự nhiên sinh tồn:
Câu thơ thứ nhất và cũng là tên bài thơ mở ra “Học nghệ thuật sống”. Câu thơ cuối cùng “Cuộc sống ngân nga” khép lại tứ thơ có sức âm vang. Đây cũng là nguyên tắc “hô - ứng” quan trọng trong luật thơ 1-2-3 mà nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu áp dụng nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ, cả trước khi kết thúc tập thơ Thị à thị ơi như bản trường ca mang cảm thức nữ quyền:
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn