Tập thơ “Thị à, thị ơi” của Phạm Thị Hồng Thu

Thứ hai - 16/06/2025 09:40
Nhà văn Phan Hoàng; P.Gs,Ts , Nhà văn Vũ Nho, Nhà phê bình văn học Thái Thị Hải
Tập thơ “Thị à, thị ơi” của Phạm Thị Hồng Thu





TIẾNG NÓI NỮ QUYỀN TỰ TIN CẤT LÊN "THỊ À, THỊ ƠI"
(Đọc tập thơ “Thị à, thị ơi” của Phạm Thị Hồng Thu, Nxb Hội Nhà văn - 2024)


Nhà thơ PHAN HOÀNG

    Từ mùa thu 2020, tôi đã được đọc những bài thơ 1-2-3 đầu tiên của Phạm Thị Hồng Thu đăng trên Văn Học Sài Gòn. Hợp cùng các bạn thơ Bùi Thanh Hà, Phạm Thị Phương Thảo, Vũ Trần Anh Thư, Bảo Ngọc, Đỗ Quảng Hàn, Lê Kim Phượng, Nguyễn Duy Chung, Đỗ Thu Hằng, Giang Đăng,… Phạm Thị Hồng Thu trở thành một trong những tác giả ở Hà Nội sớm sáng tác thơ 1-2-3 và luôn giữ nguồn cảm hứng mạnh mẽ với thể thơ mới thuần Việt này.

  Người cha từ Tuy Hòa, Phú Yên tập kết ra Bắc thời chiến tranh, chinh phục người đẹp xứ Nghệ mà kết quả là Phạm Thị Hồng Thu được sinh ra ở quê mẹ thành Vinh. Theo học ngành sư phạm làm cô giáo, về sau sống ở Hà Nội, điều đáng quý là hầu như năm nào Hồng Thu cùng gia đình cũng về thăm quê cha, nhất là vào dịp xuân về tết đến. Là người thích xê dịch, khi có thời gian bước chân của nữ sĩ lãng du khám phá khắp trong và ngoài nước, từ châu Á sang Âu và xuống tận Nam Mỹ. Đến đâu chị cũng dạt dào cảm hứng viết những chùm thơ 1-2-3 như một thứ nhật ký bằng thơ rất thú vị.

    Nhận được bản thảo tập thơ Thị à thị ơi, tôi tưởng Phạm Thị Hồng Thu tập hợp từ hàng trăm bài thơ 1-2-3 đã từng đăng trên các diễn đàn báo chí truyền thông. Nhưng đọc một mạch tôi thật ngạc nhiên khi đây là một tập thơ hoàn toàn mới, dường như chưa có bài thơ nào từng đăng tải. Có lẽ chị ủ kín và muốn trình làng tác phẩm một cách bất ngờ. Từ tâm thế, diễn ngôn đến thi tứ, thi ảnh trong tập thơ hoàn toàn mới lạ, không còn ngô nghê ngôn từ, du dương vần vè gượng gạo như những bài thơ đầu tiên của chị.

    Hình ảnh người phụ nữ thông qua nhân vật “thị” xuất hiện xuyên suốt tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu vừa có tính độc lập trong từng bài vừa có tính kết nối trong toàn tập như bản trường ca về thân phận người đàn bà trước bộn bề, đa đoan, phức tạp, giông bão cuộc đời. Một bản trường ca buồn và đẹp được viết bằng tâm thế, góc nhìn, cảm nhận tinh tế, trìu mến, chia sẻ và bao dung. Tiếng nói nữ quyền tự tin tự tại cất lên, làm bệ phóng cho nhà thơ dựng nên những bài thơ khác biệt.

“Trăng thánh thót, thánh thót
Tràn lá cây ngọn cỏ mờ mờ tỏ tỏ, mênh mang
Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát
 
Giọt giọt lòng bào xát tiếc nuối, chua chát    
Giọt trăng cứ thánh thót
Thánh thót.”


7
 
Tác giả bài viết: Nhà thơ Phan Hoàng
 
   6
                                                           Nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu

         
              Bài thơ về trăng ấn tượng mở đầu tập thơ Thị à thị ơi. Không phải ánh trăng mà là giọt trăng. Giọt trăng hay giọt lòng “Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát”. Giọt trăng như những giọt nước mắt thánh thót báo hiệu sự nổi chìm, ngọt đắng, thăng trầm của kiếp hồng nhan. Và chẳng phải con người hiện tồn xương thịt mà bắt nguồn bằng “Cảm giác là lạ, nhột nhột gáy/ Dưới hiên nhà có ánh mắt cười say” từ thế giới vô hình mang tâm thức hiện sinh “Duyên trời định khéo thay” để cất tiếng nữ quyền. Duyên trời định hay tự thân con người tìm đến nhau thì cái đích cuối cùng cũng để mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, thế gian này cái gì cũng có hai mặt, và song hành với sướng vui hạnh phúc luôn là đau buồn bất hạnh, mà bi kịch có khi bắt nguồn chính từ tiếng sét ái tình:

“Họ hớp hồn nhau từ cái nhìn đầu tiên
 
Choáng váng điện giật
Mù quáng thôi miên
 
Đời không như là mơ, mắt thấy tai nghe thị vẫn không tin
Bão giông ngập lối
Ngậm bồ hòn làm ngọt”

 Không ẩn dụ bóng bẩy như bậc tiền bối lừng danh Hồ Xuân Hương, ý thức nữ quyền trong thơ Phạm Thị Hồng Thu là tiếng nói trực diện. Trực diện trong mơ hồ day dứt. Trực diện trong ngơ ngác đớn đau. Tình yêu đắm đuối làm cho con người mù quáng. Khi bị bão giông bủa vây tứ bề thì đành “Ngậm bồ hòn làm ngọt” trong đau đớn khôn cùng: “Dựng tóc gáy// Nỗi ớn lạnh ngấm sâu vào tiềm thức/ Thị sợ hắn như người yếu bóng vía sợ ma/ Trở mặt nhanh hơn trở bàn tay/ Khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin ngây thơ mù quáng đã vào dĩ vãng”. Để được thức tỉnh thì cái giá phải trả quá lớn. Và rồi có cố “Vùng dậy thoát ra” thì người phụ nữ chưa chắc được an toàn mà lắm lúc lại bị “nuốt chửng” bởi không gian tăm tối thảm họa chờ chực:

“Những thế lực vô hình
 
Những vòi bạch tuộc
Thị nghẹt thở, co ro
 
Vùng dậy thoát ra
Không gian bao la nuốt chửng
Tấm màn nhung đen như mực.”
  Bi kịch đời sống hôn nhân của người phụ nữ thực chất đến từ đâu? Câu hỏi này nhà tâm lý học có thể dễ dàng trả lời, nhưng đối với nhà thơ để nhận biết và diễn ngôn trung thực thì chẳng phải ai cũng đủ khả năng thể hiện. Tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ soi rọi đến hố đen số phận:
“Chờ tăm đợi cá
 
Dằng dặc nỗi nhớ thương
Vòng quay đêm ngày bốn mùa dần nhích
 
Vò võ đêm trường
Côn trùng nỉ nỉ non non
Cứa tim thị mỏi mòn.”

   Không dừng ở đó, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu còn chỉ ra: “Áp lực người nối dõi quất vào đời thị// Cái nguýt của mẹ chồng băm nát trái tim/ Thị để lại tờ đơn lặng lẽ ra đi”; “Ma men// Lời thốt ra mật đắng/ Hành động băng hoại”; “Thị biết hắn dấm mẻ/ Về nhà cả vú lấp miệng em”; “Mấy chục năm thị chỉ là vợ trên giấy/ Địa ngục trần gian nếm đủ”. Và cả nỗi đau vì con cái đè nặng trái tim bất lực của người mẹ:

“Chờ đỏ cả mắt
 
Thị chờ con mòn mỏi
Nó đi quá lâu, thị cố chờ
 
Mặt trời trằn trọc mãi
Thị cố thở nhọc nhằn thều thào xin lỗi
Giọt nước mắt nóng hổi, rơi…”

  Giọt nước mắt nóng hổi cũng chính là giọt trăng lặng lẽ trên gương mặt người mẹ bất hạnh. Đau vì con trai sa ngã. Đau vì con dâu hư đốn: “Cô gái hiền lành chân chất/ Ra thành phố bỗng rũ sạch quê nhà” nông nổi chạy theo tiền bạc dục vọng. Và đau vì sự tật nguyền, mất mát của đấng sinh thành:

“Đi bên cái chết
 
Chiến tranh đạn bom khốc liệt, thị khóc ngằn ngặt bên xác mẹ
Thị tật nguyền lớn lên theo đôi quang gánh xiêu vẹo của bà
 
ra đi lặng lẽ trong ngày nắng đổ
Thị đớn đau bất lực tuyệt vọng
Mầm sống thức tỉnh
  Nỗi đau đến từ bên ngoài đã khổ. Nỗi đau gây ra từ chính “thị” càng khổ hơn. Trước hết là cái khổ của cơ thể bề ngoài: “Thị ục ịch như thùng phi di động/ Xấu đã đành, ì ạch bệnh càng tăng”, đến nỗi khổ bên trong tâm hồn vì cả tin, cả nghĩ dẫn tới “Ai nói gì cũng nghe, ai làm gì cũng đúng/ Dễ mủi lòng, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người khác” nên bị lợi dụng, bị lừa lọc và “Chuốc bệnh vào thân”. Nguy hiểm hơn là sự thui chột về tâm hồn:
“Say ganh ghét
 
Con rắn tị nạnh thường trực trong mao mạch
Chỉ chực bung ra
 
Thị không muốn ai hơn mình, dù là cái móng tay
Kể cả ruột thịt
Hả dạ.”

  Từ những hiện tượng bên ngoài, tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ chiếu rọi cả khuyết tật tâm hồn, cất được tiếng nói thiện lương, mà “Danh vọng và quyền lực” như thứ ma túy gây nghiện hủy hoại nhân phẩm:“Thị khao khát, si mê/ Sức hút quái đản không cưỡng nổi// Tài mọn, tiền vặt/ Thị gặt hái ước mơ bằng vốn tự có/ Độc.”. Lẽ tất nhiên điều ấy đưa con người ta tới đường cùng: “Thị ngập trong bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát/ Ý nghĩ tiêu cực hoành hành”.

  Phản ánh mặt trái khuất tất. Không né tránh, không đồng lõa cái ác. Soi thấu kiếp hồng nhan lênh đênh lận đận. Tâm thức nữ quyền còn giúp cảnh tỉnh, mở đường giúp cho người phụ nữ vượt thoát mà tình yêu thương chính là thần dược:

“Cứu cánh là tình yêu
 
Yêu trời biển trăng hoa, khám phá những miền xa
Yêu gia đình, bạn bè, đồng loại
 
Yêu sâu sắc cuồng nhiệt nàng thơ
Như khí trời, như cơm ăn nước uống
Quyện nàng thanh xuân ùa về.”

  Cùng với tình yêu con người và thiên nhiên, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu cho thấy thi ca thêm lần “cứu cánh” nhiệm mầu. Không mang lại thức ăn nước uống cho cơ thể nhưng thơ là món ăn tinh thần, điểm tựa vô hình kỳ diệu để vượt lên số phận tìm đến sự an nhiên trong tâm hồn, tự khám phá vẻ đẹp hiện hữu bản thể chính mình mà tạo hóa ban tặng. Đó cũng là bài học, thông điệp mà nữ sĩ Phạm Thị Hồng Thu tự khám phá và gửi đến những bạn đồng giới đồng hành trong cuộc sống đầy bất trắc nhưng cũng chất chứa bao tình yêu khát vọng khi ý thức được nữ quyền trước quy luật tự nhiên sinh tồn:

“Học nghệ thuật sống
 
Chạch bơi trên đường
Chim đẻ dưới lòng sông
 
Trời sinh vạn vật không thể đổi thay
Thị là chính mình
Cuộc sống ngân nga.”

  Câu thơ thứ nhất và cũng là tên bài thơ mở ra “Học nghệ thuật sống”. Câu thơ cuối cùng “Cuộc sống ngân nga” khép lại tứ thơ có sức âm vang. Đây cũng là nguyên tắc “hô - ứng” quan trọng trong luật thơ 1-2-3 mà nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu áp dụng nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ, cả trước khi kết thúc tập thơ Thị à thị ơi như bản trường ca mang cảm thức nữ quyền:

“Thật mau nước mắt
 
Xem ti vi, đọc sách thị gàn dở khóc người đẩu đâu
Con cái ốm đau trào tuôn nhức mắt, hoài hoài lo lắng
 
Giọt châu mài gối trắng đêm khi tổ chẳng còn hơi ấm
Rồi một ngày nỗi đau hóa đá
Nước mắt lặn vào trong.”
 
---------------------
Hà Nội - TP Hồ Chí Minh cuối thu chuyển đông 2024.
P.H


 

 

NHỮNG PHẬN ĐÀN BÀ MANG TÊN THỊ TRONG THƠ

(Tập thơ “Thị à, thị ơi” của Phạm Thị Hồng Thu, Nxb Hội Nhà văn,  cuối năm 2024)

 

 P. Gs, Ts, Nhà văn VŨ NHO

      Untitled 1Tên tập thơ nghe rất hiền lành “Thị à, thị ơi”. Không hiểu sao mới nhìn bìa, tôi lại nghĩ chắc nhà thơ viết cho thiếu nhi, lấy sự tích câu chuyện Tấm Cám với chi tiết bà cụ gọi quả thị có cô Tấm rụng vào bị của mình “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn”. Sở dĩ nghĩ thế vì tôi biết nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu có tập thơ “ Truyện cổ nước Việt”, đem những truyện cổ tích viết thành thơ. Nhưng hóa ra hoàn toàn không phải thế.

Toàn bộ tập thơ viết theo kiểu thơ 1,2,3 này là bộ sưu tập thân phận đàn bà, đủ các lọai của thời nay chứ không phải ngày xửa ngày xưa. Tôi đã đọc và viết bài gới thiệu tập truyện ngắn “Phận đàn bà” của nhà văn TS. Bác sĩ Y Mùi. Tập truyện ngắn ấy gồm 15 truyện, Hầu hết các nhân vật trong truyện dù có tên hay không tên đều là phụ nữ, dù đó là người già hay trẻ, thành đạt, hay bình thường, nhưng có thể nói họ đều chung một số phận bất hạnh. Có 15 thân phận đáng thương. Thế nhưng, trong tập thơ của nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu thì những người phụ nữ chung tên gọi là “THỊ” ấy đông đảo hơn nhiều, đa dạng hơn nhiều.

Đây là chân dung một người đa cảm, đa tình, yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thế nhưng đời chẳng như mơ. Cuộc tình đấy có ai ngờ đắng đót. Người đàn bà say đắm ấy “ngậm bồ hòn làm ngọt” :

Choáng váng điện giật

Mù quáng thôi mien

Đời không như là mơ, mắt thấy tai nghe thị vẫn không tin

Bão giông ngập lối

Ngậm bồ hòn làm ngọt

( Họ hớp hồn nhau từ cái nhìn đầu tiên)

Một người đàn bà khác bị “ngứa đau nhức buốt” vì lấy phải gã chồng chẳng ra gì! Căn bệnh nàng mắc là bởi vì…:

Chả lẽ ở bẩn đến mức để vi khuẩn len lỏi

Khử trùng bằng nước sôi

Bác sĩ phân tích nguyên nhân

Hiểu ra , hỡi ôi

Hắn…

( Không hiểu nguyên nhân bệnh ngứa đau nhức buốt)

Không thể ngờ thời đại nam nữ bình đẳng, bình quyền mà có người phụ nữ bị bạo hành tinh thần đã mất hết niềm tin với gã chồng:

Nỗi ớn lạnh ngấm sâu vào tiềm thức

Thị sợ hắn như người yếu bóng vía sợ ma

Trở mặt nhanh hơn trở bàn tay

Khẩu Phật tâm xà

Niềm tin ngây thơ mù quáng đã vào dĩ vãng

( Dựng tóc gáy)

Cái gã chồng ấy, bạn đọc lại gặp ở một phụ nữ khác. Đó là “Kẻ hai mặt”, mà “ai cũng khen đạo đức”. Có biết đâu!

Một người đàn bà khác thì cay đắng vì chồng là gã “ ma men” mất nhân tính. Bên cạnh chị là người phụ nữ có chồng là gã trăng hoa. Đã “dấm mẻ” vụng trộm, còn cả vú lấp miệng em. Chị theo đến cùng , thành ra Tan đàn xẻ nghé:

Thị biết hắn dấm mẻ

Về nhà cả vú lấp miệng em

Thị theo tới bến phải làm cho ra nhẽ

Tan đàn xẻ nghé

Nghĩ thương con thì đã muộn

( Vạch mặt chỉ tên)

Đấy là người đàn bà mạnh mẽ. Còn biết bao người đàn bà đành “Cắn răng chịu đựng”, “bất lực/ Ngậm ngùi xót cay” ( Nhà dột từ nóc). Đành nhận phần thiệt thòi vì gã chồng nghiện “ khám phá miền đất mới”:

Mùi ngai ngái , nồng nồng

Hít hà thích thú

Hắn mê khám phá miền đất mới

Thị đành ôm áo ngủ

Mặn khô

(Như nghiện thuốc phiện)

Dân gian hay đùa “ăn chay ngủ mặn”. Người đàn bà này “ ngủ mặn” nhưng là “Ngủ Mặn khô”. Thật đáng thương!

Lại còn khổ hơn nữa là người đàn bà có “chồng quan”:

Hắn đổi thị để lấy chức quyền

Mặc thị ê chề nhục nhã

Thị thành quan bà

Hắn phải cung phụng

Hỡi ơi!...

( Tham thì thâm)

Khổ về tinh thần nhưng thể xác thì được cung phụng.Một kiểu khổ khác là không được gì cả, dù có tiếng là vợ quan :

Hắn làm quan to bao nhiêu người săn đón

Bổng lộc chạy chơi đâu

Thị thui thủi như ô sin xó bếp

Chẳng được nở mày

Tủi phận

( Không có số hưởng)

Trong quan hệ gia đình, tuy cùng là phụ nữ với nhau nhưng,…gay cấn phức tạp bao giờ cũng là mẹ chồng, nàng dâu. Có mấy người đã có quan hệ tốt đẹp như trong bài thơ “Mẹ của anh” của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Mẹ chồng nàng dâu khó mà cơm lành canh ngọt.

Hai bài Mẹ chồng nàng dâu và Nàng dâu thời a còng@ đã nói về mối quan hệ này:

Bà cho thị cả gia sản cóp nhặt một đời

Thương thị như con gái

Câu mẹ chồng nàng dâu hằn trong đầu

Thị không mở lòng

Bà không tồn tại

( Mẹ chồng nàng dâu).

Còn nàng dâu khác thì lười, đùn việc cho mẹ chồng, mặc kệ “bà ấy”

Hết giờ làm thị cứ ở lại

Rủ mọi người buôn dưa lê

Để cho bà ấy làm hết việc

Tắc đường

Tội gì

Nàng dâu hiện đại bây giờ “Từ ngày làm dâu không một lần lau nhà rửa bát” ( có biết mình là nô lệ).

Cô dâu khác nữa thì khổ với mẹ chồng vì quan niệm cổ hủ về “nối dõi tông đường”. Khong chịu đựng nổi, cô chấm dứt cuộc hôn nhân:

Cái nguýt của mẹ chồng băm nát trái tim

Thị để lại tờ đơn lặng lẽ ra đi

Chấm dứt chuỗi ngày cố gắng vô vọng

Chân trời có hừng đông?

(Áp lực nỗi dõi quất vào đời thị)

Không chỉ cổ hủ, còn có người mẹ chồng cay nghiệt, đang tâm đuổi con dâu, rủa xả cô làm cho mẹ cô gái đau buồn, quặn thắt:

Con bị mẹ chồng đuổi

Rủa cả mẹ con thị

Thị hiểu con tử tế

Gặp mẹ chồng cay nghiệt

Quặn thắt

( Thương con quá!)

Có người mẹ theo tinh thần xưa “Cá chuối đắm đuối vì con”, dành hết tuổi xuân, gia sản tích cóp cho con, nhưng lại nhận lại sự hững hờ, tệ bạc:

Thị dành cho con cả thanh xuân, gia sản

Một đời khổ tứ lao tâm

Con mải vui vầy với hạnh phúc riêng

Lễ tết chẳng được một lời động viên

Tủi thân quá!

( Buồn nẫu ruột)

Có người mẹ thương con quên cả bản thân mình, héo khô âm thầm lặng lẽ:

Có mụn con nối dõi

Dốc sức cho ăn học bằng người

Bán gia sản ở quê cho mua nhà phố

Thị héo khô trong bốn bức tường

Con nào có hay

( Cá chuối đắm đuối vì con)

Nhưng lại cũng có người mẹ nhẫn tâm vứt bỏ con dứt ruột đẻ ra. Thật là độc ác và tàn nhẫn , còn thua loài cầm thú:

Thị quấn nịt bụng thật chặt

Mặc áo rộng thùng thình

Thị vát đứa con đỏ hỏn

Kiến đốt đau, tím tái, khóc ngằn ngặt

Dã thú

( Hổ dữ chẳng ăn thịt con)

Trong bức tranh những phận người phụ nữ, có loại quan bà rất kệch cỡm, kiêu sa. Quan bà đi lên bằng “vốn tự có” dù chẳng có tài cán gì, hay có chỉ là “tài mọn”;

Thị khao khát, si mê

Sức hút quái đản không cưỡng nổi

Tài mọn, tiền vặt

Thị gặt hái ước mơ bằng vốn tự có.

Độc

(Danh vọng và quyền lực)

Các bài thơ “Thích đẳng cấp”, “Thích chê”, nhà thơ đã đả kích, chế giễu loại quan bà “ leo nhanh nhờ sắc”, “Trịch thượng/ Loài chuột chù đâu biết mình hôi”. Và đây, cái “hơn người” của loại “quan bà” đó, chỉ dẻo mỏ hót bề trên và ra oai nạt nộ dưới, thích nịnh:

Bằng mọi giá thị phải lên sếp

Hót trên nộ dưới

Ai tâng thị khen

Ai hơn thị diệt

Mãn nguyện

(Hơn người)

Loại quan bà này là người “ Say ganh ghét” là người “ Hay kể công “, một tính xấu, nhỏ nhen.

Không phải mọi chân dung số phận đàn bà đều bi kịch, bi thương. Vẫn có những người tốt, vẫn có người kiên cường, vẫn có những người vượt lên chính mình.

Thị ục ịch như thùng phi di động

Xấu đã đành, ì ạch bệnh càng tăng

Bao lần cố gắng đều thất bại

Tạo động lực để quyết tâm và chiến thắng

Eo thon xinh áo dài bay trong gió dịu dàng thướt tha

(Vượt lên chính mình)

Vẫn có chuyện “Cả nghĩ”, “Cả tin”, nhưng rồi vững vàng tìm niềm vui trong hòa hợp với thiên nhiên:

Ngao du ngắm cảnh, mắt no đầy

Thư thái, thanh thản, thăng hoa

Chắt hồn gửi con chữ ngân nga

( Chân ái)

Tìm niềm vui, sự an nhiên trong thể thao “Say cầu lông”, trong tập luyện Yoga “Nghiện Yoga”, coi đó như “Thần dược chẳng tốn phí”. Người đàn bà ấy nhận ra rằng:

Càng yếu đuối càng dễ bị bắt nạt

Sống mạnh mẽ tự tin, vượt lên để chiến thắng

( Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng người)

Người đàn bà có lúc bi quan, định đi tu, định li hôn, bề tắc. Rồi bình tĩnh lại, chị quyết tâm sống. “Phải sống tốt”. Phải vượt lên chính mình!

Người đàn bà đã tìm thấy bình an, hạnh phúc khi giác ngộ “ Cứu cánh là tình yêu”:

Yêu trời biển, trăng hoa, khám phá những miền xa

Yêu gia đình bạn bè, đồng loại

Yêu sâu sắc cuồng nhiệt nàng thơ

Như khí trời như cơm ăn nước uống

Quyện nàng thanh xuân ùa về

Nguyễn Du từng kêu lên : “Đau đớn thay phận đàn bà!”. Ở đây có rất nhiều đàn bà với những thân phận khác nhau: quan trên, dân thường, già , trẻ, thị dân, nông dân, chủ nhà, osin, vợ thật, vợ hờ… Với đủ các cung bậc tình cảm ái, ố , hỉ, nộ,… Có thương xót, có hờn giận, có khinh bỉ, có xấu hổ, có tự hào, có ngợi ca…Đó là thành công của nhà thơ phụ nữ Phạm Thị Hồng Thu!

* * *

Thể thơ 1-2-3 là thể thơ do nhà thơ Phan Hoàng mới đề xướng chưa lâu. Có được một tập thơ dày dặn 123 bài “Thị à, thị ơi” như Phạm Thị Hồng Thu cho thấy sức viết của nhà thơ dồi dào. Chính người đề xướng thể thơ này đã đánh giá khá cao “ khép lại tứ thơ có sức âm vang. Đây cũng là nguyên tắc “hô - ứng” quan trọng trong luật thơ 1-2-3 mà nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu áp dụng nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ” ( Lời tựa, tr. 14). “ Đặc sắc nhất của tập thơ này chính là những bức chân dung đa dạng, đa diện, đa màu sắc về “phận đàn bà”. Một bộ sưu tập như thế thật đáng quý, nhất là những “chân dung” đó chỉ viết bằng sáu câu thơ ngắn kể cả câu nhan đề.

Thật sự khâm phục và chúc mừng nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu!
 

Hà Nội, 2/4/2025
V.N




 

 
 Người phụ nữ hiện đại trong tập thơ Thị à thị ơi
của Phạm Thị Hồng Thu 

 

                                                                                           Nhà phê bình văn học Thái Thị Hải
 

   Untitled 1Tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu gây sự ngạc nhiên cho người đọc ngay từ nhan đề. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm khác nghĩa của từ thị, cùng tiếng gọi à… ơi gợi ra một liên tưởng. Bên tai ta như nghe thấy lời thiết tha, trìu mến của bà cụ hàng nước trong cổ tích “Tấm Cám” gọi mời quả thị vàng ươm, căng tròn, thơm ngọt, mọc đơn độc trên cành cao: Thị ơi thì rụng bị bà/ Thị thơm bà ngửi chứ bà không ăn”.

   Khi đọc toàn bộ tập thơ ta hiểu thị là một đại từ chỉ thay cho các nhân vật đàn bà mà nhà văn Nam Cao vừa khách quan lạnh lùng, vừa hài hước, vừa kín đáo thương yêu trong truyện ngắn của ông như Thị Nở (Chí Phèo), Thị Nhị (Nửa đêm). Và trong văn bản hành chính, “thị” cũng là danh từ chỉ giới tính chung thường được đệm giữa họ và tên của người phụ nữ Việt. Tác phẩm Thị à thị ơi cho ta thấy toàn bộ cảm xúc trữ tình của Hồng Thu là dành cho phụ nữ.

                                                 ***

    Thị à thị ơi gồm 123 bài. Toát lên từ lời thơ là cảm hứng nhân đạo, nhân văn tinh tế, sâu sắc về các khía cạnh tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Cảm hứng ấy thể hiện qua các nội dung phong phú: Từ trân trọng, thương yêu vẻ đẹp tâm hồn, đến cảm thông chia sẻ những nỗi khổ muôn mặt; từ phê phán những thói hư tật xấu đến khẳng định sức mạnh, niềm vui, hi vọng của người phụ nữ. Giai điệu thơ chân thật và cảm động. Bởi đó chính là tiếng lòng của một người phụ nữ hát lên nỗi lòng của những người phụ nữ trong thời hiện đại ở Việt Nam.

    Để thể hiện hình tượng người phụ nữ Việt Nam hiện đại, Hồng Thu suy nghĩ, tìm tòi và dũng cảm chọn một thể thơ hiện đại đến độc đáo. Đó là thể thơ được khởi xướng bởi nhà thơ Phan Hoàng. Mỗi bài thơ là một chỉnh thể gồm 6 câu chia làm 3 đoạn. Số lượng chữ trong từng câu ấn định rõ ràng. Đoạn 1 - có 1 câu, mỗi câu tối đa 11 chữ. Đoạn 2 - có 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ. Đoạn 3 - có 3 câu, mỗi câu tối đa 13 chữ. Đề tài thơ hoàn toàn tự do, nội dung chủ yếu đi từ ngoại cảnh dẫn vào nội tâm tác giả muốn thể hiện.

   Từ trước tới nay, trong văn thơ trung đại, viết về đề tài người phụ nữ, các tác giả chỉ sử dụng thể thơ luật Đường (thơ nôm Hồ Xuân Hương), song thất lục bát (Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều), lục bát (Truyện Kiều của Nguyễn Du)… Luật bằng trắc, phép đối từ, đối thanh của những thể thơ này khuôn thanh âm của bài thơ vào một phép tắc nhất định, tù túng. Cảm xúc của nhân vật trữ tình - người phụ nữ - trong văn học trung đại chỉ bó hẹp trong tầng lớp quý tộc phong kiến, phong kiến trung lưu hoặc tầng lớp bình dân. Điều này cho thấy tầm nhìn và cảm xúc còn bị giới hạn của nhân vật trữ tình trong thời đại phong kiến.

    Trái lại, người phụ nữ trong tác phẩm thơ Thị à thị ơi sống ở thời hiện đại với tư tưởng tự do - dân chủ - bình đẳng trong mọi phương diện đời sống. Do đó, chọn thể thơ hiện đại 1-2-3, Hồng Thu thỏa sức khám phá và thể hiện đời sống muôn mặt của người phụ nữ ở các giai tầng khác nhau. Chủ đề có một nhưng những khía cạnh nội dung thể hiện chủ đề lại vô cùng phong phú. Cùng ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, mỗi bài thơ lại khai thác cung bậc rung cảm khác nhau. Từ niềm kiêu hãnh trước vẻ đẹp của:

                         Bông hoa đồng nội nhỏ nhắn dễ thương
                         Hút bao ánh nhìn ngấu nghiến
                        Lâng lâng sung sướng

    Đó là trong quá khứ, nhưng rồi đến nỗi xót xa cho hạnh phúc không may mắn vì hôn nhân: Ông Tơ Bà Nguyệt xe vội. Nhân vật trữ tình đọng lại nỗi Tiếc nuối mênh mông cho một thân phận tình yêu: luôn luôn chờ đợi hạnh phúc sẽ đến trong cái nhìn vô định Bèo dạt mây trôi.

     Tư duy hiện đại cũng là nét đẹp nổi bật của người phụ nữ. Trong chế độ phong kiến, do quan niệm về đạo tam tòng của người phụ nữ “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà nghe cha mẹ, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết thì theo con)… nên đàn bà xưa phải ở thân phận tùy thuộc vào người khác, không tự quyết định đời mình. Nhưng nhân vật trữ tình trong bài Cả tin là một phụ nữ hiện đại. Không suy nghĩ một chiều theo truyền thống mà đặt ra cách hiểu nhiều chiều. Đoạn 2 của bài giải thích từ Cả tin theo nghĩa tích cực:

                        Ai nói gì cũng nghe, ai làm gì cũng đúng
                  Dễ mủi lòng, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người khác

      Đoạn 3 có một câu đầu vừa nêu hiệu quả của sự cả tin, vừa tạo quan hệ nhân quả chặt chẽ với đoạn 2:

                        Bị lợi dụng, bị lừa

       Hệ quả này gắn với quan điểm truyền thống: cả tin là nhược điểm, là đặc điểm của đàn bà - nông nổi, cạn nghĩ, yếu đuối, đáng bị coi thường. Đó là ý nghĩa tiêu cực của sự cả tin.

       Song chính ý nghĩa tích cực của sự cả tin cũng đồng thời tạo ra hiệu quả tốt đẹp trong tư duy của nhân vật trữ tình. Hai câu cuối của đoạn 3 có tính đa nghĩa:

                         Thị rút kinh nghiệm mãi không được
                         Bản chất khó sửa

    Bề ngoài như bộc lộ sự ăn năn, hối lỗi, bực bội, cáu bẳn với bản thân; nhưng thực ra lại nhằm khẳng định, củng cố vững chắc hơn tình cảm, nhận thức của mình đối với vẻ đẹp đầy nữ tính là sự Cả tin. Ý nghĩa tích cực của Cả tin chính là: Cả tin là bản chất nhân hậu, bao dung, vị tha của người phụ nữ. Đó là bản chất nên nó trở thành cái Đẹp tồn tại vĩnh viễn trong đời. Cả tin khiến mỗi người trong chúng ta yêu con người và cuộc đời hơn. Vì vậy, hai câu cuối khổ 3 còn chứa đựng sắc thái bướng bỉnh, bản lĩnh trong tư duy của nhân vật trữ tình: hiểu sâu sắc ý nghĩa phong phú của lòng Cả tin, người phụ nữ hiện đại sẽ tỉnh táo, sáng suốt để tin yêu con người và cuộc đời một cách thông minh, chung thủy và rộng lớn hơn.  

     Từ xưa đến nay, vẻ đẹp hình thức là điều mà nhiều phụ nữ rất quan tâm, chăm sóc. Vừa tự tôn nhan sắc của mình, vừa tăng thêm tình yêu của chồng. Các cụ xưa có câu: “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Dưới chế độ phong kiến thực dân, vì nghèo khổ, phần lớn phụ nữ nông thôn như chị Dậu (Tắt Đèn - Ngô Tất Tố), Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao) lo ăn không xong, nên thường quần thâm, áo vá, chỉ nhai trầu cho ấm người, cho má thêm hồng, môi thêm thắm mà thôi. Nhưng đến thế kỷ 21 này, khi cuộc sống phát triển, sung túc hơn thì nhu cầu làm đẹp càng cao. Giá trị người phụ nữ thường được đánh giá qua hình thức bên ngoài như quần áo, đồ trang sức. Hàng phải xịn, đẹp, đắt tiền, đồ dùng là của các hãng sản xuất nổi tiếng. Nghĩa là phải sang trọng, quý phái, tạo sự ngợi khen, nể trọng trong con mắt người khác. Vì vậy, các bà, các cô đua nhau mua sắm, ăn vận sao cho thật thời thượng. Tuy nhiên trong giới phụ nữ hiện đại vẫn có những thị không theo trào lưu, a dua cùng đám đông, vì hai lẽ. Thứ nhất phía chủ quan thị quan niệm bản chất cái Đẹp là sự giản dị, tinh tế tự trọng mình và tôn trọng người khi giao tiếp, chứ không phải là ở những thứ hàng hóa đắt tiền khoác lên người. Vì vậy trong sinh hoạt hàng ngày, trong giao tiếp:

                     Thị dùng hàng thường không cầu kỳ chải chuốt
                     Vẫn đẹp lịch sự nhã nhặn

     Điều đó làm toát lên vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ hiện đại làm ra tiền, không phụ thuộc vào chồng, nhưng luôn suy nghĩ về sử dụng đồng tiền một cách hiệu quả nhất. Về hình thức bên ngoài, cần tìm hiểu để chi tiêu sao cho vẫn đảm bảo hài hòa kinh tế gia đình, đồng thời vẫn làm nổi bật vẻ đẹp thuần khiết trời cho và thái độ yêu mến, tôn trọng của người khác. Phẩm chất này được các cụ xưa quý mến coi đó là nét khéo léo, đảm đang, tinh ý, chu đáo của người phụ nữ truyền thống. Ngày nay, được học hành mở mang văn hóa trong giao tiếp, bình đẳng với nam giới về mọi mặt thì phẩm chất ấy được nâng lên thành tiêu chuẩn của người phụ nữ hiện đại: giải quyết mọi vấn đề, từ vĩ mô đến vi mô phải có con mắt kinh tế.

     Tuy nhiên, lẽ thứ hai, về phía khách quan thị không ngờ rằng người bạn đời gần gũi thân thiết nhất là hắn - chồng thị lại không hề hiểu điều đó. Thậm chí thường xuyên có phản ứng đầy vẻ khinh bỉ, giễu cợt:
 
                         Khi có việc quan trọng cần đi
                         Hắn liếc xéo bĩu môi mỉa mai
                         Đồ dởm!

    Giữa đoạn 2 và đoạn 3 bài thơ xuất hiện mâu thuẫn trong quan niệm về giá trị sự vật giữa hai vợ chồng.

     Với thị: giá trị sự vật là hiệu quả sử dụng nó trong thực tiễn đời sống.

     Với hắn: giá trị sự vật là ở chất lượng tạo ra nó.

     Đoạn 1 chỉ có một câu thơ vừa là nỗi hoài nghi, băn khoăn như một câu hỏi, vừa là trả lời cho chính nó Có phải dại. Tính đa nghĩa của câu thơ còn ở chỗ là câu hỏi và lời đáp cho cả hai hắn và thị.

     Với hắn, vì không chịu tìm hiểu suy nghĩ của vợ mình một cách tế nhị và sâu sắc, hắn không phát hiện được nét quý giá trong trí tuệ và nhân cách của thị để từ đấy càng tôn trọng, yêu quý vợ hơn. Mầm mống bi kịch gia đình - hôn nhân có nhiều khi nảy sinh từ những mâu thuẫn tưởng như vụn vặt, khinh suất ấy. Đó là cái dại của hắn.

     Còn với thị từ thái độ của hắn khi đánh giá thị qua đồ dùng hàng thường, không cầu kỳ chải chuốt, lần đầu tiên thị nhận ra sự dại của mình. Chồng thị, tức hắn không đúng là người bạn đời tri âm tri kỷ, không hề tâm đầu ý hợp với thị mà chỉ là người đàn ông hời hợt, kênh kiệu, thô bỉ, kém cỏi trong cuộc sống mà thôi. Hắn mới đúng là Đồ dởm mà thị chẳng may nhầm lẫn chọn làm chồng. Cái dại của thị mới cay đắng chua xót làm sao!

     Cái hay của thể thơ 1-2-3 còn nằm ở sự hô ứng giữa câu 1 và câu 6 trong bài thơ. Câu 1 là một câu hỏi băn khoăn Có phải dại của nhân vật trữ tình thị, thì câu 6 gián tiếp trả lời. Lấy phải chồng hoặc vợ là Đồ dởm thì cả hai đều dại thật rồi.

      Có phải dại đã đạt tới mẫu mực cho thể thơ hiện đại 1-2-3 cả về cảm hứng lẫn nghệ thuật ngôn từ.

       

       Trong tập thơ Thị à thị ơi của Hồng Thu, chủ đề nỗi khổ của người phụ nữ thời hiện đại chiếm số lượng lớn nhất. Nội dung khá phong phú và mang đặc điểm: nếu trong xã hội Việt Nam trước cách mạng 1945, người phụ nữ bị áp bức bóc lột, phải đi làm thuê, làm mướn cho các nhà giàu, địa chủ, quan lại để kiếm miếng ăn; rồi bị coi khinh bởi chế độ nam quyền… nên chủ yếu khổ sở về vật chất, về nghèo đói; thì trong chế độ mới tự do, dân chủ, bình đẳng nỗi khổ của phụ nữ chủ yếu thuộc lĩnh vực tinh thần: khổ vì chồng phụ bạc (Cạn tàu rào máng), khổ vì con bất hiếu, vô ơn (Buồn nẫu ruột), khổ vì bệnh tật nan y (Đứt từng khúc ruột), khổ vì Bế tắc tuyệt vọng không lối thoát

       Nổi bật lên trong chủ đề này là bài thơ Sợ mất ghế thỉnh thoảng hắn ghé về nhà.

      Đoạn 1 chỉ một câu trần thuật bình thường đủ ba thành phần: Trạng ngữ - chủ ngữ - vị ngữ, tưởng như là lời kể khách quan của nhân vật trữ tình về hắn. Song tâm trạng Sợ mất ghế đặt đầu câu nhấn mạnh tình thái chủ yếu luôn chi phối, đe dọa, như một chiếc thòng lọng treo lơ lửng trên đầu hắn đã hàm ý giễu cợt mỉa mai. Hắn là con người ham địa vị, danh vọng hơn cả hạnh phúc gia đình. Tới mức độ hòa bình rồi mà không khí làm việc của hắn căng thẳng như thời chiến. Chủ yếu vì Sợ mất ghế nên thỉnh thoảng hắn ghé về nhà. Một câu hỏi đặt ra hắn làm nhiệm vụ gì quan trọng, bí mật, khó hiểu đến như vậy?

    Đoạn 2 gồm hai câu trần thuật kể, tả tiếp tâm trạng và hành động của hắn, đồng thời trả lời cho điều băn khoăn nảy sinh từ đoạn 1:

                       Hạ cảnh an toàn vội nhổ vứt ngay chiếc gai
                      Tự đắc công khai trà xanh mấy chục năm băng hoại

     Nghệ thuật ẩn dụ sử dụng triệt để trong từ ngữ, câu thơ ở đoạn 2. Khi đủ tuổi về hưu có lương cao, không còn địa vị chức vụ nào đeo đẳng để phải Sợ mất ghế nữa; dư luận bình phẩm của đồng nghiệp, đồng chí cũng như những Điều lệ, chỉ thị cấm đoán các việc Đảng viên không được làm… cũng chẳng cản trở gì tới hắn được.

   Tức là Hạ cánh an toàn, hắn lập tức lộ rõ thủ đoạn thâm độc, tàn nhẫn là vội nhổ vứt ngay chiếc gai lâu nay là người ngáng mắt hắn - ly dị vợ. Hắn trơ tráo, lì lợm  tưởng mình khôn khéo hơn đời là Tự đắc công khai mối quan hệ ngoài luồng với người đàn bà khác - trà xanh mấy chục năm bằng hoại. Cho nên cái “nhiệm vụ” quan trọng, bí mật khó hiểu khiến hắn mất quá nhiều thời gian hoạt động ấy là cuộc sống quan hệ trai gái ngoài luồng đến mức bỏ bê, vô trách nhiệm với vợ con, gia đình… đã giải đáp câu hỏi cho tất cả chúng ta, mà người cay đắng nhất là vợ hắn.

     Lời đánh giá tình đời của nhân vật trữ tình nằm ở đoạn 3. Qua thực tiễn cuộc đời của hắn, nhân vật trữ tình nhận thấy một sự thật chua chát. Người có “học vấn” - kiến thức được mọi người tôn trọng, xã hội tin tưởng xếp vào chức vụ quan trọng, hưởng ưu đãi cao - “leo cao”- lẽ ra phải là người có tình, có nghĩa trong mọi mối quan hệ chung - riêng. Đặc biệt phải là những hình tượng đẹp trong cuộc đời. Nhưng ngược lại, hắn học vấn giỏi, địa vị cao nhưng lại sử dụng những gì giỏi, cao của mình vào thủ đoạn xấu xa, hiểm độc. Việc hắn khi còn đang chức quyền không dám sống trung thực với mọi người, với vợ vì vừa Sợ mất ghế, vừa muốn tự do hưởng lạc, chứng tỏ hắn là người vừa tham lam, vừa giả dối. Khi không còn phải Sợ mất ghế, hắn lộ rõ bản chất thủ đoạn, hiểm độc bằng hành động không ai ngờ - một kẻ đạo đức giả khi đương chức đương quyền đối với xã hội và một kẻ bất nghĩa, nhẫn tâm đối với vợ mình. Suốt đời hắn chỉ coi và người đầu gối tay ấp đường đường chính chính tự nhận thấy: chỉ là Vợ hờ mà thôi!

       Về nghệ thuật thể thơ 1-2-3, có mối quan hệ chặt chẽ giữa

   Câu 1: Quả                                                        Câu 6: Nhân
   Sợ mất ghế thỉnh thoảng           <--------->         vì hắn coi vợ chỉ là
   hắn ghé về nhà                                                                vợ hờ 
    hình thức bên ngoài                 <---------->        bản chất bên trong
                      của quan hệ hôn nhân giữa hắn với thị.

 

                                              ***

       Nhiều phẩm chất tốt đẹp và không ít khổ đau, nói như vậy không có nghĩa người phụ nữ trong thơ Hồng Thu toàn thiện, toàn mỹ. Nhược điểm của các thị hiện đại cũng kế thừa phụ nữ truyền thống xưa, có điều biểu hiện nâng cấp hơn trong điều kiện kinh tế phát triển mà thôi. Đọc toàn bộ tập thơ Thị à thị ơi ta hiểu được thói quen nói xấu người khác bắt nguồn từ lâu, đến thời hiện đại trở thành căn bệnh Say ganh ghét. Nọc độc nằm trong:

                       Con rắn tị nạnh thường trực trong mao mạch mạch
                       Chỉ chực bung ra
                       
                       Thị không muốn ai hơn mình dù là cái móng tay
                       Kể cả ruột thịt
                       Hả dạ.
       Mỗi lần nói xấu được ai đó thị thấy Hả dạ khoan khoái như được thả mình trong cơn Say ganh ghét của bản thân.

 

                                                        ***

     Tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu đem lại cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, dễ thương, đáng yêu như bản chất vốn có của phụ nữ. Song nét riêng ở tập thơ này được tạo nên bởi thi pháp thể thơ hiện đại 1-2-3.

    Hình tượng nghệ thuật của thơ có sự thay đổi so với các tập thơ trước. Không qua tự sự, giảm rất nhiều miêu tả cảnh thiên nhiên và hình thức bên ngoài của con người, Hồng Thu tập trung thể hiện cảm xúc trọng tâm nhất của nhân vật trữ tình. Từ ngữ trong mỗi câu, sổ câu trong mỗi đoạn ngắn gọn, giản dị, tinh lọc để làm đọng lại, lắng lại trong độc giả điều nhân vật trữ tình muốn gửi gắm. Tính logic rất chặt chẽ thống nhất xuyên suốt bài thơ - từ nhan đề câu 1 đến câu 6 - kết bài. Điều này khiến người đọc hiểu mỗi bài thơ là một văn bản thống nhất, hữu cơ giữa hình thức và nội dung.

    Nhờ sáng tác theo thể thơ 1-2-3, Hồng Thu khiến người đọc hiểu được giá trị của nó. Cái đọng lại trong tâm hồn người đọc không phải ở ngoại cảnh (thiên nhiên hay hình thức con người) mà là suy nghĩ cảm xúc được đúc kết lại một cách súc tích từ nội tâm nhân vật trữ tình. Nó như một chân lý vừa rút ra một cách tâm đắc, vừa gợi mở liên hệ, tưởng tượng cho mỗi độc giả trong những tình huống tương tự của cuộc đời.

     Có thể nói thành công của thể thơ hiện đại 1-2-3 do Phan Hoàng khởi xướng được minh chứng sáng tỏ rõ trong tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu.

 

                     Hải Phòng, ngày 09 tháng 02 năm 2025
                                     T.T.H

 

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây