Tiếng nói nữ quyền tự tin cất lên “Thị à thị ơi”

Thứ hai - 16/06/2025 09:40
Tiếng nói nữ quyền tự tin cất lên “Thị à thị ơi”



Nhà thơ PHAN HOÀNG
 

    Từ mùa thu 2020, tôi đã được đọc những bài thơ 1-2-3 đầu tiên của Phạm Thị Hồng Thu đăng trên Văn Học Sài Gòn. Hợp cùng các bạn thơ Bùi Thanh Hà, Phạm Thị Phương Thảo, Vũ Trần Anh Thư, Bảo Ngọc, Đỗ Quảng Hàn, Lê Kim Phượng, Nguyễn Duy Chung, Đỗ Thu Hằng, Giang Đăng,… Phạm Thị Hồng Thu trở thành một trong những tác giả ở Hà Nội sớm sáng tác thơ 1-2-3 và luôn giữ nguồn cảm hứng mạnh mẽ với thể thơ mới thuần Việt này.

  Người cha từ Tuy Hòa, Phú Yên tập kết ra Bắc thời chiến tranh, chinh phục người đẹp xứ Nghệ mà kết quả là Phạm Thị Hồng Thu được sinh ra ở quê mẹ thành Vinh. Theo học ngành sư phạm làm cô giáo, về sau sống ở Hà Nội, điều đáng quý là hầu như năm nào Hồng Thu cùng gia đình cũng về thăm quê cha, nhất là vào dịp xuân về tết đến. Là người thích xê dịch, khi có thời gian bước chân của nữ sĩ lãng du khám phá khắp trong và ngoài nước, từ châu Á sang Âu và xuống tận Nam Mỹ. Đến đâu chị cũng dạt dào cảm hứng viết những chùm thơ 1-2-3 như một thứ nhật ký bằng thơ rất thú vị.

    Nhận được bản thảo tập thơ Thị à thị ơi, tôi tưởng Phạm Thị Hồng Thu tập hợp từ hàng trăm bài thơ 1-2-3 đã từng đăng trên các diễn đàn báo chí truyền thông. Nhưng đọc một mạch tôi thật ngạc nhiên khi đây là một tập thơ hoàn toàn mới, dường như chưa có bài thơ nào từng đăng tải. Có lẽ chị ủ kín và muốn trình làng tác phẩm một cách bất ngờ. Từ tâm thế, diễn ngôn đến thi tứ, thi ảnh trong tập thơ hoàn toàn mới lạ, không còn ngô nghê ngôn từ, du dương vần vè gượng gạo như những bài thơ đầu tiên của chị.

    Hình ảnh người phụ nữ thông qua nhân vật “thị” xuất hiện xuyên suốt tập thơ Thị à thị ơi của Phạm Thị Hồng Thu vừa có tính độc lập trong từng bài vừa có tính kết nối trong toàn tập như bản trường ca về thân phận người đàn bà trước bộn bề, đa đoan, phức tạp, giông bão cuộc đời. Một bản trường ca buồn và đẹp được viết bằng tâm thế, góc nhìn, cảm nhận tinh tế, trìu mến, chia sẻ và bao dung. Tiếng nói nữ quyền tự tin tự tại cất lên, làm bệ phóng cho nhà thơ dựng nên những bài thơ khác biệt.

“Trăng thánh thót, thánh thót
Tràn lá cây ngọn cỏ mờ mờ tỏ tỏ, mênh mang
Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát
 
Giọt giọt lòng bào xát tiếc nuối, chua chát    
Giọt trăng cứ thánh thót
Thánh thót.”


7
 
Tác giả bài viết: Nhà thơ Phan Hoàng
 
   6
                                                           Nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu

         
              Bài thơ về trăng ấn tượng mở đầu tập thơ Thị à thị ơi. Không phải ánh trăng mà là giọt trăng. Giọt trăng hay giọt lòng “Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát”. Giọt trăng như những giọt nước mắt thánh thót báo hiệu sự nổi chìm, ngọt đắng, thăng trầm của kiếp hồng nhan. Và chẳng phải con người hiện tồn xương thịt mà bắt nguồn bằng “Cảm giác là lạ, nhột nhột gáy/ Dưới hiên nhà có ánh mắt cười say” từ thế giới vô hình mang tâm thức hiện sinh “Duyên trời định khéo thay” để cất tiếng nữ quyền. Duyên trời định hay tự thân con người tìm đến nhau thì cái đích cuối cùng cũng để mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, thế gian này cái gì cũng có hai mặt, và song hành với sướng vui hạnh phúc luôn là đau buồn bất hạnh, mà bi kịch có khi bắt nguồn chính từ tiếng sét ái tình:

“Họ hớp hồn nhau từ cái nhìn đầu tiên
 
Choáng váng điện giật
Mù quáng thôi miên
 
Đời không như là mơ, mắt thấy tai nghe thị vẫn không tin
Bão giông ngập lối
Ngậm bồ hòn làm ngọt”

 Không ẩn dụ bóng bẩy như bậc tiền bối lừng danh Hồ Xuân Hương, ý thức nữ quyền trong thơ Phạm Thị Hồng Thu là tiếng nói trực diện. Trực diện trong mơ hồ day dứt. Trực diện trong ngơ ngác đớn đau. Tình yêu đắm đuối làm cho con người mù quáng. Khi bị bão giông bủa vây tứ bề thì đành “Ngậm bồ hòn làm ngọt” trong đau đớn khôn cùng: “Dựng tóc gáy// Nỗi ớn lạnh ngấm sâu vào tiềm thức/ Thị sợ hắn như người yếu bóng vía sợ ma/ Trở mặt nhanh hơn trở bàn tay/ Khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin ngây thơ mù quáng đã vào dĩ vãng”. Để được thức tỉnh thì cái giá phải trả quá lớn. Và rồi có cố “Vùng dậy thoát ra” thì người phụ nữ chưa chắc được an toàn mà lắm lúc lại bị “nuốt chửng” bởi không gian tăm tối thảm họa chờ chực:

“Những thế lực vô hình
 
Những vòi bạch tuộc
Thị nghẹt thở, co ro
 
Vùng dậy thoát ra
Không gian bao la nuốt chửng
Tấm màn nhung đen như mực.”
  Bi kịch đời sống hôn nhân của người phụ nữ thực chất đến từ đâu? Câu hỏi này nhà tâm lý học có thể dễ dàng trả lời, nhưng đối với nhà thơ để nhận biết và diễn ngôn trung thực thì chẳng phải ai cũng đủ khả năng thể hiện. Tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ soi rọi đến hố đen số phận:
“Chờ tăm đợi cá
 
Dằng dặc nỗi nhớ thương
Vòng quay đêm ngày bốn mùa dần nhích
 
Vò võ đêm trường
Côn trùng nỉ nỉ non non
Cứa tim thị mỏi mòn.”

   Không dừng ở đó, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu còn chỉ ra: “Áp lực người nối dõi quất vào đời thị// Cái nguýt của mẹ chồng băm nát trái tim/ Thị để lại tờ đơn lặng lẽ ra đi”; “Ma men// Lời thốt ra mật đắng/ Hành động băng hoại”; “Thị biết hắn dấm mẻ/ Về nhà cả vú lấp miệng em”; “Mấy chục năm thị chỉ là vợ trên giấy/ Địa ngục trần gian nếm đủ”. Và cả nỗi đau vì con cái đè nặng trái tim bất lực của người mẹ:

“Chờ đỏ cả mắt
 
Thị chờ con mòn mỏi
Nó đi quá lâu, thị cố chờ
 
Mặt trời trằn trọc mãi
Thị cố thở nhọc nhằn thều thào xin lỗi
Giọt nước mắt nóng hổi, rơi…”

  Giọt nước mắt nóng hổi cũng chính là giọt trăng lặng lẽ trên gương mặt người mẹ bất hạnh. Đau vì con trai sa ngã. Đau vì con dâu hư đốn: “Cô gái hiền lành chân chất/ Ra thành phố bỗng rũ sạch quê nhà” nông nổi chạy theo tiền bạc dục vọng. Và đau vì sự tật nguyền, mất mát của đấng sinh thành:

“Đi bên cái chết
 
Chiến tranh đạn bom khốc liệt, thị khóc ngằn ngặt bên xác mẹ
Thị tật nguyền lớn lên theo đôi quang gánh xiêu vẹo của bà
 
ra đi lặng lẽ trong ngày nắng đổ
Thị đớn đau bất lực tuyệt vọng
Mầm sống thức tỉnh
  Nỗi đau đến từ bên ngoài đã khổ. Nỗi đau gây ra từ chính “thị” càng khổ hơn. Trước hết là cái khổ của cơ thể bề ngoài: “Thị ục ịch như thùng phi di động/ Xấu đã đành, ì ạch bệnh càng tăng”, đến nỗi khổ bên trong tâm hồn vì cả tin, cả nghĩ dẫn tới “Ai nói gì cũng nghe, ai làm gì cũng đúng/ Dễ mủi lòng, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người khác” nên bị lợi dụng, bị lừa lọc và “Chuốc bệnh vào thân”. Nguy hiểm hơn là sự thui chột về tâm hồn:
“Say ganh ghét
 
Con rắn tị nạnh thường trực trong mao mạch
Chỉ chực bung ra
 
Thị không muốn ai hơn mình, dù là cái móng tay
Kể cả ruột thịt
Hả dạ.”

  Từ những hiện tượng bên ngoài, tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ chiếu rọi cả khuyết tật tâm hồn, cất được tiếng nói thiện lương, mà “Danh vọng và quyền lực” như thứ ma túy gây nghiện hủy hoại nhân phẩm:“Thị khao khát, si mê/ Sức hút quái đản không cưỡng nổi// Tài mọn, tiền vặt/ Thị gặt hái ước mơ bằng vốn tự có/ Độc.”. Lẽ tất nhiên điều ấy đưa con người ta tới đường cùng: “Thị ngập trong bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát/ Ý nghĩ tiêu cực hoành hành”.

  Phản ánh mặt trái khuất tất. Không né tránh, không đồng lõa cái ác. Soi thấu kiếp hồng nhan lênh đênh lận đận. Tâm thức nữ quyền còn giúp cảnh tỉnh, mở đường giúp cho người phụ nữ vượt thoát mà tình yêu thương chính là thần dược:

“Cứu cánh là tình yêu
 
Yêu trời biển trăng hoa, khám phá những miền xa
Yêu gia đình, bạn bè, đồng loại
 
Yêu sâu sắc cuồng nhiệt nàng thơ
Như khí trời, như cơm ăn nước uống
Quyện nàng thanh xuân ùa về.”

  Cùng với tình yêu con người và thiên nhiên, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu cho thấy thi ca thêm lần “cứu cánh” nhiệm mầu. Không mang lại thức ăn nước uống cho cơ thể nhưng thơ là món ăn tinh thần, điểm tựa vô hình kỳ diệu để vượt lên số phận tìm đến sự an nhiên trong tâm hồn, tự khám phá vẻ đẹp hiện hữu bản thể chính mình mà tạo hóa ban tặng. Đó cũng là bài học, thông điệp mà nữ sĩ Phạm Thị Hồng Thu tự khám phá và gửi đến những bạn đồng giới đồng hành trong cuộc sống đầy bất trắc nhưng cũng chất chứa bao tình yêu khát vọng khi ý thức được nữ quyền trước quy luật tự nhiên sinh tồn:

“Học nghệ thuật sống
 
Chạch bơi trên đường
Chim đẻ dưới lòng sông
 
Trời sinh vạn vật không thể đổi thay
Thị là chính mình
Cuộc sống ngân nga.”

  Câu thơ thứ nhất và cũng là tên bài thơ mở ra “Học nghệ thuật sống”. Câu thơ cuối cùng “Cuộc sống ngân nga” khép lại tứ thơ có sức âm vang. Đây cũng là nguyên tắc “hô - ứng” quan trọng trong luật thơ 1-2-3 mà nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu áp dụng nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ, cả trước khi kết thúc tập thơ Thị à thị ơi như bản trường ca mang cảm thức nữ quyền:

“Thật mau nước mắt
 
Xem ti vi, đọc sách thị gàn dở khóc người đẩu đâu
Con cái ốm đau trào tuôn nhức mắt, hoài hoài lo lắng
 
Giọt châu mài gối trắng đêm khi tổ chẳng còn hơi ấm
Rồi một ngày nỗi đau hóa đá
Nước mắt lặn vào trong.”
 
---------------------
Hà Nội - TP Hồ Chí Minh cuối thu chuyển đông 2024.
P.H

 

 

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây