P.Gs, Ts. Trần Thị Trâm
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 là một dấu son sáng chói trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Là hệ quả tất yếu của quá trình trường kỳ kháng chiến, sự kiện quan trọng” lừng lẫy năm châu, chấn động địa câù”(Tố Hữu) không chỉ chấm dứt ách nô lệ suốt 80 năm của thực dân pháp, khẳng định chăc chắn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn đánh thức bao trầm tích văn hóa nơi núi rừng Tây Bắc và tạo cơ hội cho tài năng tiềm ẩn ở nhiều nghệ sĩ - chiến sĩ tỏa sáng. Đặc biệt, lĩnh vực âm nhạc đã có sự đột khởi với không ít tuyệt phẩm vượt qua sự băng hoại của thời gian để trở thành những bài ca đi cùng năm tháng: thấm đẫm tính sử thi và dạt dào tinh thần lãng mạn cách mạng.
Tiêu biểu cho dòng nhạc mang âm hưởng sử thi là ba khúc anh hùng ca bất hủ ra đời vào đúng thời điểm diễn ra chiến dịch Điện Biên phủ , gồm: Hò kéo pháo (13/ 3/ 1954)của Hoàng Vân, Trên đồi Him Lam(13/3/1954) và Giải phóng Điện Biên (7/5/1954) của Đỗ Nhuận. Sớm hơn là 2 nhạc phẩm: Vì nhân dân quên mình (1951) của Doãn Quang Khải, Hành quân xa ( 1953) của Đỗ Nhuận. Thậm chí có thể kể đến Bế Văn Đàn sống mãi ( 1964), nhạc Huy Du, phổ thơ Trinh Đường. Bởi dù không xuất hiện trong thời gian 56 ngày đêm chiến dịch nhưng chúng mang đậm tinh thần Điện Biên và đã tích cực góp phần tô thắm thêm những trang sử bằng âm nhạc của dân tộc.
Có một điều thú vị là, dường như đằng sau mỗi bài ca luôn thấp thoáng một câu chuyện hấp dẫn và bí ẩn, thể hiện rất rõ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, khăng khít giữa văn nghệ và hiện thực đời sống đương thời.
Chẳng hạn, Hành quân xa được Đỗ Nhuận viết trên đường tham gia chiến dịch Điện Biên, khi đến chặng từ Đại Từ, qua đèo Khế (Thái nguyên) đến Thượng Bằng La, Yên Bái, ông bất ngờ nghe được câu nói: Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi của một đồng chí trong đơn vị. Nhờ sự gợi mở đó, Hành quân xa được khai sinh rồi nhanh chóng trở nên phổ biến khắp các mặt trận, được các thế hệ trong và ngoài quân đội yêu thích. Ngay cả thiếu niên những năm chống Mỹ khi tập nghi thức đội cũng đeo vòng lá ngụy trang, bước theo nhịp một! hai! một! và hào hứng hát hành khúc của Đỗ Nhuận:
Hành quân xa rất có nhiều gian khổ/ Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi/Mắt ta sáng chí căm thù bảo vệ đồng quê ta ta tiến bước / Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi
Còn Vì nhân dân quên mình lại được ra đời khi chiến sĩ Doãn Quang Khải nhìn thấy dòng chữ: Vì nhân dân phục vụ trên báo Vệ quốc đoàn (tiền thân của báo Quân đội Nhân dân). Cảm xúc dâng trào, chỉ sau 3 tiếng, chàng nhạc sĩ nghiệp dư họ Doãn đã hoàn thành một nhạc phẩm nổi tiếng viết về hình tượng anh vệ quốc quân chân thực và sống động. Là con em nhân dân, vì nhân dân mà đánh giặc, được dân tin yêu, các anh nguyện sẵn sàng hy sinh không tiếc máu xương : Vì nhân dân quên mình/ Vì nhân dân hy sinh/ Anh em ơi vì nhân dân quyên mình/ Đoàn vệ quốc chúng ta/ Ở nhân dân mà ra/ Được dân kính, được dân mến muôn phần. Là ca khúc thành công đầu tiên sau 1945 viết về vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ, Vì nhân dân quên mình đã vinh dự được nhận giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam và trở thành bài hát truyền thống của Quân đội nhân dân, là nhạc hiệu cho các chương trình phát thanh, truyền hình của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Nói đến Điện Biên Phủ không thể không kể tới Hò kéo pháo của Hoàng Vân- một tác phẩm ra đời vào ngày mở màn chiến dịch Điện Biên lịch sử( 13/ 3/ 1954). Trực tiếp có mặt trong chiến dịch, được chứng kiến những hiểm nguy, những gian nan vất vả và ý chí quyết tâm kéo pháo lên trận địa của các chiến sĩ, được tận mắt chứng kiến những hành động hy sinh cao cả của biết bao anh hùng liệt sĩ: Tô Vĩnh Diện, Trần Can, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn… Hoàng Vân đã xúc động, kịp thời sáng tác một nhạc phẩm để đời. Với ca từ mộc mạc, giai điệu khỏe khoắn, trầm hùng, tác giả đã dựng lại toàn bộ khung cảnh chiến trường Điện Biên lịch sử. Bức tranh đặc tả cảnh những chiến sĩ đưa đoàn voi sắt Điện Biên nặng hàng tấn vượt qua núi cao vực thẳm đã lay động lòng người, truyền cảm hứng mạnh mẽ tới toàn dân, toàn quân niềm tin tất thắng :
Hò dô ta nào/ Kéo pháo ta vượt qua đèo/ Hò dô ta nào / Kéo pháo ta vượt qua núi/ Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi/ Vực sâu thăm thẳm vực nào sâu bằng chí căm thù.
Nếu Hò kéo pháo, Trên đồi Him Lam, Vì nhân dân quên mình, Hành Quân xa nghiêng về phản ánh hiện thực kháng chiến trần trụi với muôn vàn khó khăn gian khổ, nhằm khẳng định, ngợi ca, biểu dương: tinh thần anh dũng, ý chí quyết tâm chiến đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc, niềm lạc quan tin tưởng vào thắng lợi của quân dân ta trong kháng chiến chín năm (Đi mở đường thắng lợi/ Ba tháng đổ mồ hôi/Tới đây quyết diệt cho hết quân thù, Trên đồi Him Lam; Quân với dân một lòng/ Không phân biệt xuôi ngược/ Cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù, Qua miền Tây Bắc) thì Giải phóng Điện Biên lại mang âm hưởng rất riêng bởi đó là một khúc ca chào mừng chiến thắng. Giữa ngày lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm Christinan de castriest (7/5/ 1954), nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã dồn hết tinh lực, thức trắng đêm để viết những nốt nhạc đầu tiên và nhanh chóng tạo nên một bức tượng đài bằng âm nhạc, báo tin vui trước nhân dân và bè bạn năm châu. Khúc khải hoàn ca của ông đã diễn tả rất sinh động không khí tưng bừng của ngày đại thắng bằng một giọng điệu thật hào sảng, bằng những âm thanh rộn rã và trong khung cảnh rực rỡ cờ hoa. Niềm vui như từ trong tâm mỗi người dân đất Việt trào dâng, ào ạt, cuồn cuộn tràn ra, thấm vào từng cảnh vật làm bừng sáng cả không gian. Và nổi bật trên khuôn hình là hình ảnh những đoàn quân rầm rập bước trong niềm hân hoan, náo nức đón chào của toàn thể nhân dân :
Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về/ Giữa mùa hoa ở miền Tây Bắc tưng bừng vui/ Bản mường xưa nương lúa mới trồng/ Kìa đoàn em bé giữa đồng nắm tay xòa hoa/ Dọc đường chiến thắng ta tiến về/Vui mừng đón chúng ta tiến về /Núi sông bừng lên/ Đất nước ta sáng ngời cánh đồng Điện Biên/Cờ hồng chiến thắng tưng bừng trên trời.
Khúc ca là kết tinh hồn thiêng sông núi, là biểu tượng của tinh thần Điện Biên quật khởi, là khát vọng hòa bình của dân tộc đã lập tức được biểu diễn ngay tại lễ mừng chiến thắng, đã vinh dự được chọn là bản nhạc mở đầu chương trình mỗi ngày mới của Đài Tiếng nói Việt Nam và 70 năm đã qua vẫn không hề giảm độ tưng bừng náo nức.
Rồi cùng với : Hành quân xa, Trên đồi Him Lam, Giải phóng Điện Biên đã đưa Đỗ Nhuận trở thành tác giả đạt kỷ lục người có nhiều bài hát thành công nhất viết về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ .
Dòng trữ tình xuất hiện sớm và được mở đầu bằng Đường lên Tây Bắc (1949) của Văn An. Rồi đến Qua miền Tây Bắc ( 1952) của Nguyễn Thành. Ở những ca khúc này, chất sử thi và chất trữ tình được hòa quyện vào nhau không thể tách rời, góp phần làm giảm nhẹ tiếng gầm của đại bác, nuôi dưỡng và giúp tâm hồn người nghe thanh tĩnh, cân bằng. Dường như chiến tranh càng lùi xa thì chất trữ tình càng đậm đà, kết tinh ở hai bản tình ca Chiếc khăn piêu (1956)của Doãn Nho và Tình ca Tây Bắc (1957)của Bùi Đức Hạnh, Thơ Cầm Giang.
Đường lên Tây Bắc của Văn An - một nhạc sĩ nghiệp dư 20 tuổi, trên đường ra trận, đã xuất thần mà có được. Từ góc nhìn đời thường, Tây Bắc hiện lên đẹp như tranh khiến chàng lính trẻ với tấm lòng trong trẻo, tâm hồn lãng mạn đã bất ngờ tìm thấy cho nhạc phẩm của mình một ca từ đẹp, giản dị, cùng một giai điệu mượt mà, êm ái rất khác so với những hành khúc mang âm hưởng hào hùng đương thời:
“Đường lên Tây Bắc xa xôi/ Nếp nhà sàn thấp thoáng/Đằng xa tiếng hát dân quân/ Tiếng reo lưng đồi nương/.
Giai điệu đã đẹp, lời ca lại tuyệt đẹp, qua đó thể hiện “vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ, một vẻ đẹp nội tâm nồng nàn yêu nước”(Nguyễn Trọng Tạo).
Ở Qua miền Tây Bắc (1952)của Nguyễn Thành, núi rừng Tây Bắc lại hiện lên trong vẻ đẹp kỳ thú, là sự gặp gỡ giữa hai đối cực: vừa hiểm trở với ngút ngàn suối sâu, đèo cao, vừa dịu dàng, trong trẻo với bạt ngàn hoa ban trắng. Hành khúc gọn, hàm súc đầy hào khí, toát lên vẻ đẹp tâm hồn của những tài hoa ra trận. Họ không chỉ yêu Tổ quốc, đánh giặc giỏi mà còn biết trân quý cái đẹp và có khả năng bất tử hóa cái đẹp : Qua miền Tây Bắc/ Núi vút ngàn trùng xa/ Suối sâu đèo cao, Bao khó khăn vượt qua/ Bộ đội ta vâng lệnh cha già /Về đây giải phóng quê nhà.. .
Chùm bài hát đậm đà tinh thần lãng mạn ra đời trong kháng chiến chín năm được nối tiếp bằng Chiếc khăn piêu (1956) của tuổi Doãn Nho, người lính trẻ vừa từ trận chiến trở về. Khi ấy, đất nước vẫn ngập tràn không khí hào hùng của chiến thắng nhưng ngọn gió hòa bình mát lành đã nhẹ nhàng thổi khắp miền Tây Bắc. Và nhờ sự khai mở của bài dân ca Xá Tăng A Tim, tác giả đã có được bản tình ca đầu tiên với một giai điệu tươi mới, trẻ trung, cách tỏ tình kín đáo tế nhị nên thơ thật dễ thương: Nghe con chim cúc cu/ Kìa nó hót lên một câu rằng /Có một nàng ở trong rừng/ Tìm trong rừng, kiếm trong rừng, Chiếc khăn piêu/ Chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng để gió cuốn bay về đâu/ Chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng để gió cuốn bay về đây vương trên cây… Á ơi có phải thắm thiết duyên nhau/ Chiếc khăn đây làm mối nối duyên nhau thời tôi đợi chờ…
So với Chiếc khăn piêu, Tình ca Tây Bắc được phổ biến hơn. Sự gặp gỡ tối ưu giữa thơ và nhạc trong khung cảnh núi rừng Tây Bắc đã sản sinh ra một ca khúc về tình yêu lứa đôi hay vào bậc nhất trong nhiều thời đại - một tình yêu nguyên sơ, trong trẻo, lấp lánh, khi cái tôi hòa vào cái ta một cách tự nhiên. Đó là một tình yêu thủy chung đầy tinh thần nhân bản, luôn biết dâng hiến cho nhau, biết sống vì nhau: Rừng cây xanh lá muôn đóa hoa mai mừng đón xuân về/ Vui trong nắng vàng từng đàn bướm trắng bay khắp rừng hoa/ Ngập ngừng bên suối nước reo quanh mình như muôn tiếng đàn / Bâng khuâng nỗi lòng nhịp saó ai đưa tiếng ca rộn vang? Em là dòng sông Mã/ Anh là suối ngàn sâu…
Tình yêu càng trở nên đắm say khi được bung nở giữa giữa rừng xuân tươi đẹp, hạnh phúc lứa đôi càng trở nên viên mãn khi đất nước giờ đây đã hòa bình: Rừng là rừng hoa với chim ca vui tưng bừng/ Suối nước trong xanh in bóng em và bóng anh/ Bên nhau cùng sống vui êm đềm giữ núi rừng/ Đất nước hòa bình hạnh phúc ta như mùa xuân.
Như vậy, ở giai đoạn kháng chiến chống Pháp nói chung, chiến thắng Điện Biên nói riêng, trong lĩnh vực âm nhạc đã xuất hiện nhiều khúc ca đi cùng năm tháng. Sự bùng nổ của những nhạc phẩm xuất sắc thời kỳ này ngoài tài năng và vốn kiến thức đã được tích lũy của các tác giả còn có những lý do khác. Trước hết, quá trình tham gia kháng chiến đã giúp những nghệ sĩ - chiến sĩ có cơ hội đến và phát hiện được vẻ đẹp đầy quyến rũ với những kiệt tác kỳ vĩ của tạo hóa vùng Tây Bắc và một nền văn hóa bản địa phong phú, độc đáo của 19 dân tộc anh em. Ngoài vẻ đẹp nên thơ của núi rừng những chiến sĩ còn biết đến nhiều giá trị tinh hoa của văn hóa dân gian: những vòng xòe mê đắm, những giai điệu dân ca trong đêm hạn khuống hát giao duyên của dân tộc Thái, những làn điệu dân ca Hmong, Kh mú, Pa dí… đẹp giản dị mà sâu sắc về nội dung, độc lạ về tư duy nghệ thuật, thống nhất trong quan niệm về cái đẹp: đi đến tận cùng cái đẹp chính là sự giản dị. Mà lời tỏ tình của chàng trai Hmong là một ví dụ :
Nếu anh là giọt nước/ Xin được tan dưới chân nàng/ Nếu anh là giọt mưa xin được tan trên đôi tay nàng/ Nếu anh là giọt sương/ Xin được tan trên thân thể nàng (Dân ca H. Mông).
Còn đây là trường liên tưởng thông tuệ, phóng khoáng và cách dùng ngôn ngữ lấp lánh của vũ trụ để vẽ chân dung mĩ nhân của chàng trai đa tình dân tộc Giáy : Ai vẽ tên em bằng ánh sáng/ Ai vẽ hình em bằng ánh trăng(Dân ca Giáy).
Và mối chân cảm của đôi trai gái dân tộc Thái dành cho nhau mới sâu sắc và tuyệt vời làm sao: Không lấy được nhau lúc trẻ/ Ta yêu nhau lúc góa bụa về già (Xống chụ xôn xao, dân tộcThái).
Đặc biệt, nhờ quá trình tham gia kháng chiến, những văn nghệ sĩ đã thấm nhuần đường lối văn nghệ của Đảng, phấn đấu xây dựng nền văn nghệ mới phát triển theo hướng: dân tộc, khoa học và đại chúng. Đến với vùng đất giàu trầm tích văn hóa Tây Bắc, họ càng hiểu rằng, văn hóa dân gian là nơi lưu giữ nhiều nhất những mã, những cốt văn hóa dân tộc mà không có gì dân tộc, đại chúng bằng văn hóa dân gian. Cho nên bên cạnh tiếp nhận những gía trị tinh hoa nhân loại, họ đã nỗ lực tiếp thu và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vùng miền.
Chính điệu hò dô đã giúp Hoàng Vân có tuyệt phẩm Hò kéo pháo, đã giúp ông diễn tả chân thực quang cảnh, không khí, lòng quyết tâm kéo những chú voi sắt vào trận địa của các chiến sĩ Điện Biên. Vì Hò dô là một bài ca lao động, như một tín hiệu giúp dân gian xưa đồng tâm hiệp lực cùng nhau di chuyển, khiêng vác những vật rất nặng. Mà pháo (chủ yếu là 105 ly) là một thứ vũ khí hiện đại nặng hàng tấn nhưng hết sức lợi hại trong chiến dịch Điện Biên lịch sử.
Giải phóng Điện Biên thành công là bởi Đỗ Nhuận đã khéo léo kết hợp xòe Thái với những làn điệu dân ca của đồng bằng Bắc Bộ như Ai xui lúa chín (Quan Họ) và Sắp qua cầu của chèo cổ … Những chất liệu dân gian khi được sử dụng đắc địa đã phát sáng góp phần làm nên một khúc khải hoàn ca sống mãi cùng năm tháng.
Chiếc khăn piêu, Tình ca Tây Bắc và những bài ca đi cùng năm tháng được sinh ra từ chiến dịch Điện Biên đều là những khúc ca được hình thành trên nền tảng âm nhạc truyền thống quý báu. Chúng đã góp phần bất tử hóa chiến công của những chiến sĩ Điện Biên, từ đó khẳng định đóng góp của nền âm nhạc và vai trò to lớn của nền văn nghệ nước nhà cho sự thành công của bản giao hưởng Điện Biên; đồng thời còn cho thấy sức lan tỏa của khúc tráng ca Điện Biên đối với đời sống âm nhạc và đời sống văn nghệ dân tộc suốt 70 năm qua.
---------------------------------------------
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn