Tùy bút của Phùng Văn Khai
Hà Nội mùa thu năm nay vẫn đẹp đến bâng khuâng lòng dạ con người, vẫn tha thướt áo dài ngẩn ngơ mắt người phố thị xôn xao vẫy gọi mà vẫn như thiếu vắng một cái gì khó gọi thành tên? Ừ nhỉ! Hãy gọi tên ra một cái gì thật Hà Nội, thật tinh khôi thanh thoát như một Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ sao đột nhiên khó gọi tên ra? Hay là đây chăng? Cây Hà Nội vừa trải qua cơn bão Yagi rúng động lòng cây cùng lòng người quặn thắt. Hàng chục ngàn cây gãy đổ tang thương đau xót cây ơi mấy trăm năm tuổi cội rễ cắm vào lòng người sâu dày bao thế hệ ông bà ta mẹ cha ta đời kiếp sinh sôi bên cây cội rễ thắm tình người ruột thịt.
Trong mịt mùng mưa bão gãy đổ bốn bề ấy, dưới những lằn chớp lóe sáng trong khuya khoắt, bóng những chiến sĩ nối nhau đi về phía tiếng người dân gọi đợi trợ giúp. Tiếng gọi không thể nào vượt khỏi những bức tường gió bão đập thuỳnh thuỳnh, vô vàn cây cối bị vò nhàu quất ràn rạt vào đôi vai người lính. Ôi đôi vai người lính! Đôi vai của các anh từ thuở vượt núi, băng sông, xuyên rừng, vượt qua tầng tầng lửa đỏ bom đạn quân thù tới ngày hòa bình đất nước khang trang thì vẫn là đôi vai ấy mềm mại ấm nóng mà như tường đồng vách sắt che chắn nơi đầu sóng ngọn gió bảo vệ đất đai thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ sự yên bình, no ấm, phát triển cho nhân dân dưới lá cờ đỏ sao vàng đỏ thắm reo vui.
Đôi vai người lính trong các mùa mưa bão luôn cho người cầm bút chúng tôi một suy nghĩ thật đặc biệt. Những đôi vai ẩn chìm trong nước xiết. Bên trên đôi vai dầm nước ấy là mẹ già tám chín mươi tuổi đôi mắt mờ đục ngồi trên vai chiến sĩ rẽ nước mặc mưa quất gió thổi ràn rạt bốn bề. Tay mẹ run run cầm mấy gói mì tôm đã ướt sũng mủn nát tự bao giờ. Phía trước là những ngôi nhà vùng bão đang thấp thoi chìm dần trong biển nước. Những đôi vai chiến sĩ, có người trần da thịt, có người áo đã rách, cầu vai quân hàm cũng đã lút chìm trong nước vẫn gắng sức nâng cao chiếc chậu nhôm bên trên là những em bé mới hai, ba tuổi mở mắt to tròn còn chưa hiểu được sự hung tợn của thiên nhiên. Có những lúc sóng đánh đột ngột, đôi vai người lính chợt lạng đi trong nước xiết rồi anh lại mau chóng ghìm chân xoay người tránh sóng để mẹ già, em thơ không bị chao lắc, dập vùi. Khi đến được nơi khô ráo, đã có đôi vai tướp máu mà nụ cười các anh vẫn tươi tắn nở trên cặp môi tái mét vì dầm gió nước quãng đường dài.
Ngày chúng tôi đi Điện Biên, gặp gỡ và trò chuyện với các lão binh tuổi đều trên 80, trên 90, nhiều cụ đã trên 100 tuổi. Khi kể về những đôi vai ngày vác pháo, khiêng hòm đạn, lán trại, như thể là khiêng sông vác núi tất cả vì giải phóng Điện Biên. Câu thơ áo anh rách vai, quần tôi vài mảnh vá của nhà thơ Chính Hữu là từ những hình ảnh thực đôi vai người chiến sĩ. Khiêng vác ngày này tháng khác, đời người chiến sĩ là đôi vai và ngọn lửa trong tim rừng rực cháy. Đất nước còn nghèo. Áo con rách rồi mẹ vá áo cho con. Đôi vai áo rách ấy đã vào lời bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: Tấm áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc, để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc/ Quần nhau với giặc/ Áo con rách thêm nên các mẹ già phải thức đêm đêm vá áo/ Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo/ Đời mẹ nghèo, manh áo rách nên thương... (Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa).
Lời bài hát cứ văng vẳng như dội từ thuở quần nhau với giặc ngày chiến khu xưa thăm thẳm. Vai người chiến sĩ Điện Biên năm xưa giờ đã sụm xuống, co ngót lại trong tấm áo lành lặn thùng thình dày đặc Huân chương, Huy hiệu khiến những người lính trẻ chúng tôi cười mà nước mắt cứ chảy ra. Một nữ nhà thơ người dân tộc sà đến bên các cụ lính Điện Biên đặt tay lên đôi vai khô khẳng còn hằn vết đạn thù. Đôi vai ấy ngày trước đã từng khiêng vác những khẩu trọng pháo xuyên núi rừng, xuyên bom đạn lên đỉnh cao dội bão lửa xuống đầu thù. Có người lính bị gãy tay đã nhờ đồng đội kê vào đá tảng chặt phăng đi cho khỏi vướng mà đôi vai còn trên thân thể vẫn cùng đồng đội vượt qua mọi hiểm nguy tạo nên những chiến công. Đôi vai người chiến sĩ đã trở thành một phần thiêng liêng, chất thép, góp phần tạo dựng hình tượng cao đẹp bộ đội cụ Hồ chính từ những đôi vai tường đồng vách sắt.
Ngày xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, bộ đội và dân công hỏa tuyến đã phải dùng đôi vai của mình gùi súng đạn, gùi lương thực, thực phẩm và nhất là gùi xăng dầu vô cùng vất vả và nguy hiểm. Xăng dầu ở Trường Sơn quý như máu. Khi chưa có đường ống dẫn xăng dầu, bộ đội và dân công đều phải gùi xăng bằng phương pháp thủ công khiến đôi vai và tấm lưng người chiến sĩ phồng rộp loang lổ như người bị dính bom na pan. Có chiến sĩ gùi xăng qua trọng điểm bị dính mảnh bom đã bốc cháy toàn thân như ngọn đuốc sống hy sinh trong sự tiếc thương đến tận cùng của đồng chí đồng đội. Từ đôi vai ấy, từ ngọn lửa ấy đã nuôi chí căm thù, tất cả trở thành một khối, tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả hướng tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đất nước mới vừa hòa bình, hai đầu biên giới phía Nam, phía Bắc lại rộ lên tiếng súng. Đôi vai người lính lại trĩu nặng trọng trách mà nhân dân và Tổ quốc giao cho. Các anh lại lên đường đi về phía tiếng súng. Đôi vai người chiến sĩ lại sẵn sàng che chắn hiểm nguy cho nước, cho dân.
Trong một cuộc đi tuần biển, Đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Quân chủng Hải quân thấy các chiến sĩ cứ trần trùng trục, vai các cậu ấy đều hằn những vết cứa của đá san hô đã thành sẹo bóng đỏ dưới nắng biển. Các chiến sĩ bảo: “Bố biết không? Chúng con đã dùng vai để khiêng vác đá san hô nên vai rách là chuyện bình thường. Vài vết sẹo xoàng càng thêm chiến tích để tán tỉnh các em ở đất liền bố ạ. Chúng con đã viết thư cho người yêu, bảo rằng chúng con đang dùng vai để kê cao Tổ quốc. Bố thấy có đúng không?”.
Vị Tư lệnh lừng danh mắng yêu đám lính tếu táo mà nước mắt ông cứ thế ứa ra. Ừ thì đất nước còn nghèo. Lính tráng chúng mày nơi mịt mùng sóng gió canh giữ biển đảo áo quần nào cho xuể nên dùng vai trần vác đá là đúng rồi. Lại còn biết đưa vào thư gửi người yêu ở đất liền hình tượng đến như vậy còn trách gì được các con. Thôi hôm nay trời cũng sắp tối rồi, tớ cho các cậu đi nghỉ sớm. Tớ sẽ gác đảo đêm nay!
Và Đô đốc Giáp Văn Cương đã ôm súng đứng gác trước sự ngạc nhiên đến tột độ của đám lĩnh đảo.
Tôi rất nhớ một chuyện do Trung tướng Khuất Duy Tiến kể lại. Đó là ngày đơn vị ông hành quân từ Tây Nguyên ra phía Bắc thẳng lên chốt chiến đấu tại các điểm cao rất ác liệt. Bộ đội trên chốt đều rất thiếu nước, đã phải dùng đôi vai vác từng thùng nước, can nước lớn nhỏ vượt qua tầm khống chế của pháo và hỏa lực địch khiến bộ đội bị thương vong. Có những đoạn hào cạn, cây cối đã bị thiêu trụi, kể cả những tảng đá mồ côi cũng bị đạn pháo bắn ngày đêm nát trắng xóa thành vôi. Bộ đội ta đã phải bò sát đất, dùng vai đẩy từng can nước ngược lên chốt rất gian khổ. Nhiều chiến sĩ đã bị địch bắn tỉa xé nát đôi vai đang vác, đang đẩy từng can nước lên chốt cho đồng đội. Mãi về sau, bộ đội ta mới có sáng kiến dùng bơm cao áp và đường ống dẫn bơm liên hoàn nước lên chốt mới khắc phục được tình hình. Đôi vai người chiến sĩ trên chốt quần nhau với quân thù thấm máu luôn là hình ảnh cứa sâu vào vị tướng trận đến tận hôm nay.
Trong cơn bão Yagi vừa qua, dưới trùng trùng mưa quăng gió giật, giữa đêm đen mịt mùng lũ quét, cây đổ, cầu sập, người mất tích, tài sản của nhân dân chìm trong biển nước, có bản làng bị xóa sạch chết hàng trăm người lớn bé già trẻ, chỉ vài người còn sống sót vô cùng đau đớn. Đôi vai người chiến sĩ đã lập tức băng qua mưa gió, bão lốc, hiểm nguy đến với nhân dân. Đôi vai các anh quằn đi trong sấm chớp đùng đùng. Đôi vai nhấp nhô, lấp loáng trong thét gào hung hãn của thiên nhiên cuồng nộ. Đã có đôi vai của các anh ngã xuống. Người chiến sĩ hy sinh tính mạng của mình để cứu nhân dân trong bão lũ chính là vẻ đẹp nhất của hình tượng bộ đội cụ Hồ.
Đôi vai người chiến sĩ! Đôi vai anh sao sáng đẹp vững chãi lạ thường. Đôi vai của mẹ của cha của ông bà tiên tổ trao truyền dài rộng đến hôm nay và mai sau. Đôi vai người chiến sĩ chính là một trong những chiều sâu của văn hóa con Lạc cháu Hồng, chiều sâu của hòa bình, chiều sâu của sự nhân văn trong thời đại Hồ Chí Minh.
P.V.K
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn