NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN – Thư ký sứ mệnh trước và bắt đầu thời kỳ đổi mới tới nay bằng những trữ tình phóng sự thơ.

Thứ hai - 13/01/2025 18:32

Nhà thơ Đỗ Trung Quân

Nhà thơ Đỗ Trung Quân

       

   Nhà thơ Bùi Văn Kha

          Năm 1985, sau mười năm Sài Gòn giải phóng, tôi về lại Thành phố thấy đa phần đời sống thiếu thốn, lòng tin xã hội suy giảm, thần tình bất ổn. Tôi nhớ lúc ấy vượt biên không ồ ạt nhưng vẫn là cứu cánh. Dân số hình như 24 vạn sống trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền từ Mỹ, Pháp, Anh,… gửi về  (Cũng như ngoài Bắc - Hà Nội nhiều người sống khấm khá từ nguồn con em đi Liên Xô, Đức, Ba Lan,…mà cũng lạ, năm ấy, tôi vẫn thấy, người Sài Gòn gọi tất cả người Bắc là Hà Nội, không phân biệt).

          Nhiều khi hoàn cảnh là áp lực. Chính trị vỉa hè, “cả nước lo việc nhà, cả nhà lo việc nước” (nước trên là Việt Nam, nước dưới là H2O - đói và thiếu).

          Anh có còn chút trí nhớ nào không? của Đỗ Trung Quân làm thời ấy. Bây giờ đọc lại là hồi ức. Bấy giờ là chuyện không phải vừa. Ánh hào quang của chiến thắng vẫn bao trùm. Chính trị đường lối, cải cách quốc tế, chiến tranh bảo vệ tổ quốc, cấm vận,… bao chuyện lớn lao. Đối với một bộ phận thiên chức sứ mệnh, đi về trước lại ngoái nhìn sau mình, thì chậm và tâm trạng. Cái đạo đức luân lý chuẩn mực không còn là điều kiện cần nữa, mà là cản trở trì trệ. Bài thơ chụp một chuỗi ảnh về cái thể tượng ai cũng thấy, nhưng làm như không thấy, nhưng dù gì cũng được nói ra, và ám chỉ. Đây là nhắc nhở. Sự quên là thái độ “không thể được” - (Nguyễn Quang Thân). Thực ra, từ năm 1978, bên Tàu, Đặng Tiểu Bình, ngoài tiếp tục mèo trắng mèo đen trong quan hệ mèo chuột, còn giương cao phương pháp tay chỉ phía tả, chân bước phía hữu. Đỗ Trung Quân bảo đi ngược thì nhanh, đi bình thường thì chậm, là nói về một dạng thức.

Anh có còn chút trí nhớ nào không?

Có quá nhiều thứ phải ngoái nhìn
bao giờ thì chúng ta thanh thản?
Có quá nhiều thứ phải sái cổ gãi đầu
phải cố nhớ
phải ca hát
cái đầu - chúng ta ai cũng có vấn đề em ạ

phía trước là bầu trời - cái tựa phim nghe kêu ra phết
nhưng ta cứ phải ngoái nhìn
cứ phải nhắc nhau một ngày nào đó
cứ phải nhắc nhau một người nào đó
kỷ niệm này
truyền thống nọ
hiến chương kia...
Chúng ta ai nấy đầu mắc bệnh:
Chúng ta cứ tưởng mình tỉnh táo

anh có còn chút trí nhớ nào không?

Chúng ta đi ngược thì nhanh
đi bình thường thì chậm
phía trước là bầu trời
phía trước là tương lai
đơn giản thế thôi
nhưng chúng ta phải ngoái nhìn lại
để khỏi bị thổi còi
chúng ta mất trí nhớ
chúng ta kém tưởng tượng
chúng ta không còn khát vọng
chỉ toàn hoài vọng
sống hão huyền

anh có còn chút trí nhớ nào không?

         Cổ tích bao giờ cũng động tiên bươm bướm. Phạm Duy ca khúc có hoa vàng bướm lượn chập chờn mây trắng cây xanh hạc đậu. Hiện thực ngã tư lại vặt vãnh giang hồ. Lúc ấy tôi còn nhớ, mọi người đều chọn biện pháp vô cảm “mục hạ vô nhân” với cái xấu, cái tệ nạn, “ngu” thì chết chứ bệnh tật gì. Mãi 20 năm sau mới có bộ phim Người vác tù và hàng tổng do Quốc Tuấn và Văn Hiệp đóng, giễu nhại xen nhắc nhở, 30 năm sau mới xuất hiện hiệp sĩ đường phố, điều mà Đỗ trung Quân nói từ đầu năm 80 thế kỷ 20.

Có một bài thơ không bươm bướm

Không thể nói khác hơn rằng hôm nay - buổi sáng rất buồn.
Anh mất nửa giờ ở ngã tư quen thuộc,
Chỉ vì một gã đụng người rồi bỏ chạy luôn ...
Gã đụng người chạy luôn còn anh đứng lại.
Rồi một "người anh em" đến làm chứng lập lờ.
Anh mất nửa giờ và mất luôn ... nửa phần lương tháng
- Hỏi em có thấy buồn không?

Hỏi em có thấy buồn không rằng chiều nay
Anh đã có lần dừng trước người con gái hỏng xe
Rất lịch sự xin được làm anh chàng hào hiệp
Người con gái giật mình với cái nhìn nghi hoặc (!).
Rồi bỏ mặc anh chàng cụt hứng đứng ngẩn ngơ...

Có những lúc lòng buồn anh tự hỏi
Liệu lòng tin có cần chứng minh thư ?
Ví dụ như em lỡ độ đường và anh dừng xe lại
Em có ... mà thôi ! ...

Anh đã có những ngày buồn như thế
Trang thơ viết ra không có nổi chú bướm vàng
Nhưng anh vẫn tin một hôm nào xuống phố
Còn gặp những lòng người hóa bướm bay sang ...

1987

          Nhận lấy nỗi đau, thách thức nỗi đau, chiến thắng nỗi đau. Có người Việt nào, nhất là miền Nam 30 năm kháng chiến chống thực dân đế quốc, lại tiếp ngay 10 năm chống quân Bành trướng nước lớn. Không chỉ là nỗi đau cụ thể ấy, còn có nỗi đau kiếp người. Nhận lấy, thách thức, chiến thắng nỗi đau này bằng tình yêu. Tình yêu là bản lĩnh và điểm tựa. (là tình yêu nói chung, bao hàm trong đó tình yêu trai gái).

Bài hát của hoa hồng

Nỗi khổ đau đấy ư?
Ra là người
Khuôn mặt lạnh lùng và độc ác
Người đã trải xuống chân ta những cành gai lấy từ thập giá
Đã giật khỏi tay ta nụ hoa bé nhỏ
Để đặt vào đấy than hồng.

Được rồi ta sẽ cầm như nhận lấy phần mình một điều thách thức
dù nỗi đau tận xương
dù nỗi đau ghê rợn
nỗi đau làm ta run lên

Nhưng hỡi nỗi đau - gương mặt của đá
Ta sẽ nói với ngươi bằng lời cây đàn nghiến răng ta hát
Ta sẽ cầm than hồng dù tay ta cháy lửa
tâm hồn cháy lửa
để khi xoè tay ta sẽ gắp từ tro than
moi lên một bông hoa nghi ngút khói
một bông hoa còn rỏ máu
loài người sẽ gọi tên Hoa hồng
Hỡi nỗi đau
Hãy đến khi nào ngươi muốn đến
Hãy đi khi nào ngươi muốn đi
Còn tình yêu của ta
Đừng hòng ngươi lấy được!

          Sự thật những tháng năm này chao chát lắm. Thời tiền Đổi Mới, như đã nói, là đói nghèo gian khó. Nhưng vẫn có hoa của ngày thường. Nhưng vẫn có hoa của đời thường. Và có người lạnh nhạt nhìn nhau nhân danh áo cơm/ Thì những kẻ mơ mộng còn rất cần đấy chứ/ Anh sợ vật giá leo thang nhưng cũng lo vầng trăng không mọc nữa đêm rằm/ Hay sợ trăng đã mọc rồi mà đầu anh vẫn cúi/ Bởi trái tim mình đã thành đá tảng rêu phong/ Nên anh vẫn muốn nói cùng em về hoa cỏ/ Ta xanh xao - nhưng hãy rất con người/ Ta phẫn nộ - nhưng chớ thành trái độc/ Ai vấp ngã ven đường, không một giọt lệ rơi/ Không một giọt lệ rơi vì mắt nhìn ráo hoảnh/ Vì mắt đã lạnh tanh những dung tục đời thường/ Nên anh cứ muốn nói hoài về hoa cỏ/ Để còn biết giật mình khi chạm một làn hương”.

Cỏ hoa cần gặp

Có thể chấm dứt được rồi những nụ cười giễu cợt
Rằng những ai nói về cỏ hoa là những kẻ
không chạm hai chân trên mặt đất này
Anh vẫn đến thăm em bằng bước chân có thật
Vẫn không quên chùm hoa cúc cầm tay...
Anh không dửng dưng trước hạt gạo khó khăn ngày hai bữa
Anh không quên những vất vả đời thường
Anh biết rõ những giọt nước mắt em đôi khi thành chất độc
Nhỏ xuống lòng mình loang lổ vết thương
Nhưng anh vẫn cần nói cùng em về hoa cỏ
Về những vòm me không ai có thể đốn mất của mình
Về những chiếc chuồng bồ câu màu hồng trên mái ngói
Về tím đỏ ráng chiều,
Về vạt nắng bình minh...
Dẫu hoa đã từ lâu không có mặt trên những bàn ăn đạm bạc.
Dẫu bóng mát vòm me chưa che tròn lưng
những đứa trẻ con lượm rác ven đường.
Dẫu đã xuất hiện quá nhiều kẻ vác súng săn
tìm bầy chim thành phố.
Và có người lạnh nhạt nhìn nhau nhân danh áo cơm
Thì những kẻ mơ mộng còn rất cần đấy chứ
Anh sợ vật giá leo thang nhưng cũng lo vầng trăng
không mọc nữa đêm rằm
Hay sợ trăng đã mọc rồi mà đầu anh vẫn cúi
Bởi trái tim mình đã thành đá tảng rêu phong
Nên anh vẫn muốn nói cùng em về hoa cỏ
Ta xanh xao - nhưng hãy rất con người
Ta phẫn nộ - nhưng chớ thành trái độc
Ai vấp ngã ven đường, không một giọt lệ rơi
Không một giọt lệ rơi vì mắt nhìn ráo hoảnh
Vì mắt đã lạnh tanh những dung tục đời thường
Nên anh cứ muốn nói hoài về hoa cỏ
Để còn biết giật mình khi chạm một làn hương

01/10-1986

 

         Bài Tạ lỗi Trường Sơn là cả một thế sự luận lý. Dằn vặt, chất vấn quan phương. Sau đó chụp ảnh sự thay đổi của bên bề trên khi không còn chính đính. Tôi nhớ, lúc ấy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng kêu gọi trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò. (Dựa trên tư tưởng Khổng học “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử”). Liêm Chính, với người nắm quyền lực, là tiêu chuẩn cao nhất, thời nào cũng vậy. Gần đây, tôi thấy nhiều trường không còn hàng chữ “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” mà nhà giáo Nguyễn Lân khởi xướng (cũng là Khổng học). Bài thơ Tạ lỗi Trường Sơn nói về cách nhìn tha hóa và tự tha hóa.

Tạ lỗi Trường Sơn

1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục,ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính nguỵ
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hoá lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân uỷ mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập toà án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hoá thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi – của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc.

3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...

4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?

5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa.
Này đây!
Xin đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ...
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?

1982

          Tôi xin chép lại nguyên xi lời của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Dĩ nhiên, những năm 20 thế kỷ 21, nhân dân và dân tộc đã coi danh xưng Sài Gòn và Thành phố Hồ Chí Minh là đương nhiên, tuy hai mà một. Đấy là cả một cố gắng về mọi mặt tiến bộ tồn tại. Càng thấy bài thơ có giá trị lịch sử như là thư ký sứ mệnh.

Lời tác giả khi công bố bài thơ năm 2009:
 

Đã 34 năm trôi qua. Hoà bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội. Thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hoà bình (1982). Nay nhìn lại, tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã “yên vị” khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn giải phóng Sen hay bùn về danh xưng khi nào thì gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi TP Hồ Chí Minh, cái tệ nạn, cái xấu, cái “tồn đọng” thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo Sài Gòn giải phóng như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn giải phóng ( nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)… Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…

Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...

          Trữ tình thế sự luận lý còn ở Huế 1998. Bài này làm trước Festival Huế năm 2000, nhưng lúc đó đã có triển lãm Điềm Phùng Thị. Nhắc lại chút, năm 1985 tôi ngồi tầu Thống Nhất vào Nam, thấy Huế thiếu gạo lắm. Cứ 10 người buôn gạo phải có 5 người Huế. Tôi cứ xen vào vì độc giả bây giờ, nhất là người trẻ, chỉ xem trên phim ảnh, truyện ký, chứ không trải qua cái khốc liệt của thời kỳ. Câu “cỏ ung dung trên đá/ thành quách cũ hao mòn/ chỉ tiếng chim bình thản/ an trong cành nhãn non là ước thôi, chứ lúc ấy hàng rong và súng hơi Made in Đức (Deutsh) ngộp thở, khó cho câu “cỏ ung dung trên đá/ chỉ tiếng chim bình an”.

Huế 1998

Chỗ nào cho bình yên
thôi ta ngồi với cỏ
ghế đời chông chênh quá
chỗ nào cho bình yên?
ngồi mỏi ta cứ nằm
mây bay tự nghìn năm
cuộc đời ầm ĩ quá
ngủ được thì ngủ đi
nghe được thì nghe đi
trong lặng im lá cỏ
giật mình ai điều gì
cỏ ung dung trên đá
thành quách cũ hao mòn
chỉ tiếng chim bình thản
an trong cành nhãn non

          Tôi đã vào Triển lãm tội ác Mỹ Ngụy ở Quận 3. Bài thơ Thư gửi các thiên thần chỉ muốn nói giáo dục trẻ em có nhiều cách, nhưng nếu để các em tiếp xúc trực tiếp với cái ghê rợn của nó, thì người lớn cần cân nhắc. Sự tàn bạo của chiến tranh thế giới dẫn tới chủ nghĩa hiện sinh, bắt đầu ở Pháp. Tất nhiên, chính trị và chiến tranh không thể dùng tình cảm và luân lý để giải quyết. Bây giờ, thế giới lúc nào cũng có cuộc đánh nhau ở đâu đó. Năm 1976, tôi được cấp trên trong Quân đội nói, phương Tây bảo Việt Nam mình thiện chiến và hiếu chiến (nó chụp ảnh vệ tinh thấy đâu cũng đóng quân và hành quân). Cuộc đấu tranh bảo vệ Hòa bình, từ năm 1990 đến nay của chúng ta là một thành tựu tự hào nhất.

Thư gửi các thiên thần

Thưa các thiên thần bé nhỏ
tôi gặp sáng nay trên những con đường có hàng me xanh ngắt
những hàng me đã đi vào vô số nhạc và thơ
tôi xin tự giới thiệu
tôi - một người đã lớn
kẻ suốt đời đi tìm tuổi thơ đã mất
tìm suốt đời vẫn hoài không gặp
tìm không gặp vẫn không được khóc
bởi vì tôi đã là người lớn rồi
người lớn khóc là một điều xấu hổ
Thưa các thiên thần bé nhỏ
đang đuổi theo những chiếc lá me lăn tăn ngoài phố
khăn quàng bay như màu lửa
À không !
tôi xin lỗi
khăn quàng đẹp như đuôi chú cá phướn trong chiếc lọ thuỷ tinh ở nhà
Sau trò chơi rượt đuổi
lại xếp hàng đôi - hàng ba
đi vào xem... máy chém
đi vào nơi trưng bày những chiếc lọ thuỷ tinh không có con cá phướn
chỉ bềnh bồng trôi - những xác người
những xác người ghê rợn
nhăn nhúm...
co quắp...
Thưa những người lớn đang làm nhà dìu dắt
có ai đi mua đồ chơi là chiếc máy chém tặng sinh nhật con mình?
Có ai tặng cho cô bé lên mười xinh xắn
những xác người ngâm trong lọ thuỷ tinh?
Thưa những người lớn đang hào hứng thuyết minh
đố quý vị đêm nay sẽ có bao thiên thần trong giấc ngủ giật mình
trong giấc mơ
ôm mặt khóc
với những giấc mơ đầy máu và xác người.
Đố quý vị đêm nay có bao nhiêu vì sao trên trời
những đám mây cầu vồng
những chú gấu bông
Bảy chú lùn và nàng Bạch Tuyết
Những bà tiên dịu hiền trong cổ tích
lang thang trên trời
không xuống được cùng với giấc mơ trẻ nhỏ
Đố quý vị đêm nay có bao nhiêu hoa cỏ
rũ buồn
vì chờ mãi trong sân chơi chẳng có trẻ con nào tìm đến
vì những người lớn dắt đi xem máy chém
& mìn Claymore
lựu đạn
& nhà tù.
Tuổi thơ tôi là sa mạc hoang vu
những giấc mộng kinh hoàng
những mái nhà bốc lửa
chiến tranh đi qua đó
tuổi thơ đi đâu rồi?
Xin hãy giúp những thiên thần lên năm, lên mười hôm nay,
tất cả đều giống như cô bé Maika hỏi mãi một câu không có lời giải đáp
tội ác là gì?
cái chết là gì?
chiến tranh là gì?
Hãy giật mình khi trẻ thơ thắc mắc
- máy chém
để làm chi?

1989

          Cũng theo mạch này, là bài thơ Ngày mai không bao giờ chết. Có qua chiến tranh mới trân trọng và giữ gìn hòa bình. Sự thật được trình bày trong bài thơ như một phóng sự phim, tôi nghĩ không cần lời diễn giải.

Ngày mai không bao giờ chết

Bất cứ khi nào anh cho nổ súng (bảo rằng) để điều chỉnh những sai lầm của lịch sử,
anh đều đang nói dối. Bởi lẽ lịch sử không sai lầm, vì nó không có chủ đích...
Joseph Brodsky (đề tựa SARAJEVO - NHẬT KÝ CHIẾN TRANH của Zlatko Dizdarevic, 1993)

thế kỷ
mặt trẻ thơ ám khói
thế kỷ phơi xương người già chết đói
đạn bom mang quà đến từng ngôi nhà
thế kỷ chia đều
tai ương cho ta

tình yêu mong manh
những dặm dài cô độc
không áo giáp
không vũ khí phòng thân
tình yêu gầy còm mở lồng ngực lép
thả chim câu bay lên

thế kỷ
những kẻ giàu nhất hành tinh
thế kỷ
những người nghèo nhất nhân loại
tai ương mọc như rừng
tình yêu ướm chồi hi vọng

thế kỷ cao ốc
thế kỷ đổ nát
thế kỷ hoàng kim, thế kỷ hoang tàn
em ơi!
gia tài chúng ta vẫn còn tiếng hát
băng qua thời gian

12.1999

          Chất tự vấn tự ý thức trong Lửa tro nói về nghiệp sáng tác. Đôi khi, lời hay nhất là lời im lặng. Tôi nghĩ, nói vậy thôi, chứ thơ Đỗ Trung Quân cũng thích hợp với thơ quảng trường, của công chúng trực tiếp. Đốt cái gì đó thành tro, nếu tàn tro thì thôi. Nhưng còn lửa tro, thì sự đốt ấy được truyền thừa, dù ngắn dù dài. Đốt để đến ban mai lành sạch.

Lửa tro

Chiều cuối cùng của thế kỷ 20
Tặng một con người còn đó – ngọn đèn chầu...

Có những âm thanh ồn ào
Tạ ơn trời
Ta đã điếc
Có những tiếng im lặng thở dài
Tạ ơn trời
Ta nghe đươc

Đôi khi
Ta viết như một kẻ bị mù chữ
Đôi khi
(mừng thay)
Ta viết như được khải huyền

Đôi khi
Ta vẽ lên giấy những ngọn pháo bông hoa mỹ
Đôi khi
Ta nhớ về những ngọn lửa sắp lụi tàn
Lửa của tro than
Hẹn thắp lên một ban mai
Lành sạch

          Sau một chút thời gian có câu thơ Lê Quang Trang “Lả tả bay giữa thành phố đông người/ Tro quá khứ tình yêu em đã đốt/ Cái quá khứ không sao mà ăn được/ Nhưng con người lại chẳng thể nguôi quên”, nhưng đây là một bài thơ tình, khác với Lửa tro là bài thơ tự ý thức.

          Tôi cũng muốn để bài thơ Bài học đầu cho con khai đề bài viết này. Nhưng đành phải trân trọng dành phần cuối, bởi, nếu không, sự cuốn hút của bài thơ này lấn hết phần tôi định viết. Bài thơ nổi tiếng về hay và truyền bá, kể từ khi ra đời, cùng bài hát Quê hương của Giáp Văn Thạch phổ nhạc bài thơ, cuốn hút người Việt, kể từ năm 1983. Có một em bé đọc trên sóng truyền thanh cũng truyền cảm như giọng hát của ca sĩ Thu Hiền, Anh Thơ. Đây là bài thơ trữ tình luân lý xúc động và đồng cảm trong cộng đồng người Việt. Chúng ta cũng không cực đoan khi nói “quê hương mỗi người chỉ một”, bởi năm 1960, Chế Lan Viên đã viết “tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Trước đó, có Giang Nam 1956 “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/ có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần máu thịt của em tôi”, hay Tế Hanh “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/…/Hai tiếng quê hương hai tiếng miền Nam”, cũng được sáng tác khi tập kết ra Bắc sau hiệp nghị Giơ – ne – vơ. Còn Nguyễn Linh Khiếu viết “nơi ta ở đó là quê hương” khoảng đầu thế kỷ 21. Nhưng cái chỉ một của Đỗ Trung Quân gắn liền với “như là chỉ một mẹ thôi” sáng chói một tiên đề mặc định. Quê hương của Đỗ Trung Quân là bức tranh miêu tả ước lệ về nông thôn làng xã Việt, nhưng đầm ấm thân thuộc biết bao, đẹp đẽ thơ mộng biết bao, vượt ra ngôn ngữ tuồng chèo nơi sân đình, thấm vào hồn ta, thấm vào đời ta sữa thơm của mẹ, câu hát ru của mẹ.

Bài học đầu cho con

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ...

          Thơ Đỗ Trung Quân là một kho báu rất lớn. Tôi chỉ khai thác thơ ông ở lĩnh vực trữ tình luận lý phóng sự phản ánh Sài Gòn một thời đoạn. Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay đã có cuộc thay đổi về chất của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội theo hướng tốt đẹp bền vững. 50 năm đã qua, rất nhiều thế sự đã xếp vào lịch sử. Thơ Đỗ Trung Quân đã chụp ảnh thời ấy và đồng hành ký ức chúng ta. Chỉ có nhà thơ, mới, bằng cảm hứng, mà trình ra ý tứ một thời, chuyển lại nhiều thời!

 

Hà Nội, tháng 12/2024
B.V.K

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây