Thơ hóa thạch ở lòng người

Thứ hai - 13/01/2025 18:38
Nhân đọc: "Đi qua mùa thu" - tập thơ của Nguyễn Thái Hưng, NXB Hội Nhà văn 2024
Thơ hóa thạch ở lòng người


Nhà thơ MAI NAM THẮNG

     

        Thơ hóa thạch ở lòng người  là câu thơ trong một bài thơ in trong tập Đi qua mùa Thu của tác giả Nguyễn Thái Hưng. “Đi qua mùa Thu” là nhan đề một thi phẩm được dùng làm tên chung cho tập thơ đầu tay này của anh. Tất nhiên, “mùa Thu” ở đây cần được hiểu với hàm ý tu từ, để chỉ một giai đoạn của đời người...

     “Đi qua mùa Thu” là cuộc đời đã đi quá nửa; đã nếm trải đủ vui, buồn, sướng, khổ... Mà đời người thường vui ít, buồn nhiều; nhất là với những người mang tâm hồn thi sĩ, vốn đa cảm, đa tình...

       Đã vậy, Nguyễn Thái Hưng lại là một cử nhân Văn khoa Đại học Tổng hợp Hà Nội cuối thập niên 70 của thế kỷ trước; một Luật sư được đào tạo chính qui và có thâm niên công tác trong ngành tư pháp ở địa phương và Trung ương. Cho nên những vui, buồn trong thơ anh vừa đẫm chất nhân văn, vừa sâu xa triết luận; những chiêm nghiệm nhân sinh được anh chắt lọc trước hết từ chính cuộc đời mình và những người ruột thịt thân yêu.

      Đó là cuộc đời của người bố kính yêu, một nông dân có chữ, vừa bộc trực chân chất, lại vừa khẳng khái thâm trầm. Khi tha hương vì sinh kế nhưng thất bại thì trở về: Ông đứng lặng trước ngôi nhà xưa/ Phóng chiếc mai xuống đất mà thề:-Không đi nữa! (Đất). Nhưng khi sắp trở về với đất thì ông căn dặn: Con hãy nói với người đào huyệt/ Để đầu về hướng Tây/ Vì bố không muốn thấy mặt trời như trái chín ngày ngày/ Rụng xuống!/ Muốn ngắm mãi những vì sao buổi sáng/ Lúa đồng xanh ngập chân mây/ Lùm tre, mái rạ bết gầy... (Nói với người đào huyệt).

       Đó là cuộc đời người mẹ: ... sậm sà lo từng bát gạo/ Ngồi lặng im bầu ngực tong teo... (Dòng sông nguyền). Xưa đã thế và muôn đời vẫn thế. Các bà mẹ vắt kiệt sức mình nuôi các con không lớn để hòa nhập với cuộc đời: Và khi trở về nhà  gặp lại mẹ của ta/ Chắt chiu tảo tần trong tấm áo nâu/ Vá lại nhiều lần nên bạc màu đất ải... (Thực tại trước năm 2000).

     Hầu như tất cả các bà mẹ Việt Nam đều như thế, nhưng với bà mẹ của tác giả còn có một hoàn cảnh nhói lòng: Mẹ gãy chân mười năm nằm viện/ Nhà thành vũng hoang/ Chúng tôi thương khóc mắt phồng (Dòng sông nguyền).

       Đó là người anh trai, một “phiên bản” mới của người bố kính yêu, cả cuộc đời lao đao lận đận trên cánh đồng chua mặn: ... Dưới trưa nắng xoay trần/ Vét bùn đổ lên mặt ruộng/ Mồ hôi bám lưng bóng mật/ Ròng ròng trên ngực chẳng khô/ Chân bấm lún đá ngõ làng chuyển lúa/ Vai cuộn lằn thoi gỗ/ Gánh vơi cả đồng suốt tháng suốt năm... (Anh tôi).

       Đặc biệt là người chị thân thương, một nguyên mẫu điển hình của người phụ nữ Việt Nam trong những năm đất nước vừa phải lo đánh giặc giữ nước, vừa phải lo lao động sản xuất để sinh nhai. Và cùng với bom đạn, thiên tai, đói nghèo... người vợ liệt sĩ còn phải chống đỡ với biết bao bất trắc bủa vây. Người chị ấy gánh trên vai một đầu cuộc chiến tranh vệ quốc, một đầu là hậu phương của người lính với trách nhiệm của một người vợ thờ chồng, nuôi con và nghĩa vụ người con chăm lo cho bố mẹ già. Những vất vả tảo tần ấy có thể ai cũng thấy, nhưng đời chị còn nhiều nước mắt lặn vào bên trong: Mười năm ru cỏ bờ đê/ Trăm năm ru ánh trăng khuya một mình.../ ... Tươi mùa bao lứa tầm xuân/ Chị giờ như đã chứng thầm quả-tu/ Một mình hát, một mình mơ / Một mình gieo cả mùa thu xuống đồng... (Chị tôi). Lúc bé đã thương chị như thế, lớn khôn đi xa, trở về gặp chị càng se thắt hơn: Em xa đã mấy mươi năm/ Giờ gặp chị - tóc xưa xanh - trắng rồi!.../ Quết trầu loang đỏ bờ môi/ Lưng còng, gậy chống, cơm ngồi một bên... (Về thăm chị).

       Những câu chuyện trên đây là “của tôi” – tác giả. Anh viết về những người thân yêu ruột thịt của mình, nhưng lại chạm được đến trái tim của bạn đọc tha nhân. Bởi, xét đến cùng thì không thể có cái Tôi tuyệt đối, không liên quan gì đến những cái Tôi khác, với xã hội và cộng đồng. Thơ viết về cái Tôi của cá nhân nhưng để đến được với bạn đọc thì phải có cái Ta, cái chung, thì mới được người đọc sẻ chia, cảm nhận... Với những cảm hứng lớn mang tầm dân tộc, thời đại, nhân loại… thì cái Tôi bao giờ cũng hàm chứa những vấn đề chung của cộng đồng xã hội, vì vậy trong cái Ta ấy có cái riêng của nhà thơ. Đồng thời, vì thơ là tiếng nói trữ tình của cá nhân nên cái Ta trong thơ Nguyễn Thái Hưng đã được “Tôi hóa” trong cảm xúc chung của cộng đồng trước mối quan tâm chung về số phận dân tộc và khát vọng lớn của nhân dân.

      Ấy là khi đứng trước đền thờ An Dương Vương, anh chất vấn vị vua mất cảnh giác: Sao không xét lỗi mình/ Sao không kìm cơn giận?...

      Là khi đứng trước đền thơ Trần Hưng Đạo, anh liên tưởng: Trên tường/ Vệt nước loang hình thanh kiếm/ Ngoài Bến rừng/ Sóng ầm ầm như trống trận khua vang...

      Là khi lên thăm đền Côn Sơn, anh xa xót: Trống trận gươm khua còn vọng đến cửa thiền/ Tiếng than khóc ngập Bình Than, Tốt Động/ Cấp ngựa, cấp thuyền mở muôn đường sống/ Sao riêng mình bạc phận Ức Trai ơi!...

      Hoặc khi thắp hương dâng đền thờ Quốc Tổ, người thơ ngỡ như còn âm vang lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”...

       Còn nhiều lắm những câu thơ mang cảm thức công dân của Nguyễn Thái Hưng. Chẳng hạn như những câu thơ anh viết về những bao tải đất liền được gửi ra cho bộ đội Trường Sa trồng rau, trồng hoa; Những câu thơ viết ở thành cổ Quảng Trị... Hoặc như những lời anh dặn dò con cháu mai sau khi hiện tại đất nước đang chìm ngập trong khó khăn, thách thức; chật vật đổi mới để phát triển:

      Khi Ba viết cho con những dòng vào thời con chưa có
      Cả đất nước của Ba đang căng ra trên dây đàn thế kỷ
      Vẫn chọn những âm sắc ngọt ngào cho thế hệ của con
     Để ngày mai trong hạnh phúc bình yên
     Con nhớ mãi tháng năm này và lớp người đi trước...
                                      (Viết cho con trước năm 2000)

      Nhà lý luận phê bình văn học Nga Bi-ê-lin-xki xác quyết: “Chỉ những nhà thơ nhỏ mới vì mình mà đau khổ và chỉ họ nghe thấy tiếng nói lí nhí của họ mà thôi”. Ý thức công dân, ý thức trách nhiệm xã hội không cho phép người nghệ sĩ chỉ quẩn quanh trong thế giới riêng của mình. Khi viết về những hi sinh, mất mát, gian khổ, thiếu thốn... thì nhà thơ cũng phải đặt trong vấn đề chung của xã hội, của đất nước. Văn chương đích thực cần có những cọ xát, những va đập của hiện thực cuộc sống bộn bề phức tạp; bao gồm cả những điều tốt đẹp, nhân văn cần được ngợi ca, bênh vực lẫn những cái xấu, cái ác cần phê phán, lên án.

       Vẫn biết rằng, văn thơ là sản phẩm mang dấu ấn cả nhân, bản ngã; nhưng xét cho cùng, giá trị CON NGƯỜI là bất biến, thì chức năng “sinh ra con người lần thứ hai” của văn học, nghệ thuật là vĩnh hằng. Và như thế, văn chương phải thấm đẫm tinh thần dân tộc và mang tính nhân loại sâu sắc thì mới có sức sống và có “đất sống”. Điều đó đòi hỏi nhà văn trước hết phải là một CÔNG DÂN trách nhiệm. Và đất nước, cộng đồng phải là mối quan tâm lớn nhất của người cầm bút. Tâm niệm ấy của Nguyễn Thái Hưng phần nào được thể hiện trong một bài thơ có hẳn tựa đề là Thơ:

      Thơ như người đói trên đường
      Tìm ta trú ngụ
      Bội thu buồn vui vẫn không đủ
      Theo riết đời lại về bên mộ
      Nghèo xót xa trắng ngọn cỏ
      Trùm lên mặt đất mùa Thu!
      Con ơi
     Thơ không tắt thở
     Thơ không cần vuốt mắt như bố
     Thơ hóa thạch ở lòng người!

     Trong tập Đi qua mùa Thu, Nguyễn Thái Hưng còn có nhiều những câu thơ thể hiện quan niệm của anh về Thơ mang ý nghĩa triết luận sâu sắc, như: Sinh diệt không đứng nguyên/ Sinh diệt hợp tan sáng tối/ Khát vọng nhân tâm không mỏi/ Siêu thoát thành thơ xuống đời...

       Có lẽ, vì quan niệm về thơ thiêng liêng, cao quý, sang trọng như vậy mà phải đến khi “Đi quan mùa Thu” của cuộc đời, Nguyễn Thái Hưng mới đủ tự tin để công bố tập thơ đầu tay, tập hợp những bài thơ tâm huyết của mình; trong đó có những câu thơ như:

       - Một mình gieo cả mùa thu xuống đồng...
       - Em cười cho núi hoá thành trẻ thơ...
       - Hoa không nở hương dồn xuống rễ...
       - Áo thành bóng người trên mắc...
       - Sông như lưỡi dao đặt trước nhà mình...
        Vân vân... Và:
       Sợi tóc tư lự mà già
       Biết ngắn lại để chối từ với gió...
       Hoặc:
            Nụ cười ánh mắt đưa duyên
      Còn long lanh lắm, liếc nghiêng cả chiều…

      Đó là những câu thơ đẹp và hay. Những nhà thơ chuyên nghiệp cũng viết đến thế thôi. Xin chúc mừng người thơ Đi qua mùa Thu !

                                                                           

 Hà Nội, cuối Thu Giáp Thìn 2024
 M.N.T

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 4 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây