Nguyễn Linh Khiếu, ''Nếu ta có một nắm đất''

Thứ bảy - 24/09/2022 07:39
Nguyễn Đức Tùng:
Đó là kết hợp giữa tự sự sinh thái và trữ tình xã hội. Những điều ấy được thực hiện trong thể thơ tự do, với những câu dài, kỹ thuật trùng điệp, với các nút thắt mở của trường ca. Nguyễn Linh Khiếu cần thơ trữ tình để vượt qua các khoảng cách, kết nối sự vật trong không gian và thời gian. Anh cũng vượt qua các tập quán, thiết chế, điển lễ, các rào cản xã hội, bằng cách đối thoại với thiên nhiên; và tôi cho rằng đó là chọn lựa thích hợp.
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng
(Canada)
 

        Thơ Nguyễn Linh Khiếu là dòng thơ trữ tình mới. Anh tin vào khả năng của ngôn ngữ trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa, mang đi ý niệm truyền sinh, phồn thực, ca ngợi thiên nhiên, trong khi vẫn thường xuyên tra hỏi các vấn nạn lịch sử. Đó là kết hợp giữa tự sự sinh thái và trữ tình xã hội. Những điều ấy được thực hiện trong thể thơ tự do, với những câu dài, kỹ thuật trùng điệp, với các nút thắt mở của trường ca. Nguyễn Linh Khiếu cần thơ trữ tình để vượt qua các khoảng cách, kết nối sự vật trong không gian và thời gian. Anh cũng vượt qua các tập quán, thiết chế, điển lễ, các rào cản xã hội, bằng cách đối thoại với thiên nhiên; và tôi cho rằng đó là chọn lựa thích hợp. Thơ của anh mở ra từng đợt như sóng, nhiều bài nối tiếp nhau, ngay cả những bài ngắn, độc lập, cũng dễ dàng được đặt vào giữa các bài khác, thành những chuỗi, thành chủ đề.

nếu ta có một nắm đất
ta sẽ vùi hạt hạnh vào trong
cầm trên tay đợi khi mùa xuân tới
hạt hạnh trong tay sẽ lặng lẽ nảy mầm

nếu ta có một cánh đồng
ta sẽ cày bừa xới vun đất đai màu mỡ
trên cánh đồng ta chỉ trồng hoa hạnh
ai đi qua cũng trầm trồ cánh đồng hoa hạnh của nhà thơ

nếu ta có một quốc gia
trên lãnh thổ nhiệt đới phì nhiêu của mình ta chỉ trồng hoa hạnh
người yêu hoa khắp thế gian hành hương về chiêm ngưỡng
thiên đường hoa hạnh của thi nhân.

Câu hỏi của Nguyễn Linh Khiếu nhiều hơn câu trả lời. Câu trả lời giới hạn trí tưởng tượng, trong khi câu hỏi mở rộng chúng. Câu hỏi của anh: chúng ta đến từ đâu, chúng ta là ai, tự do là gì, chúng ta đi về đâu, ý nghĩa của tồn tại của dân tộc. Thơ cũng cố gắng giải thích nhiều sự vật, tuy vậy giải thích không phải là công việc chính. Ngôn ngữ thơ cần một tiếp cận toàn bộ, trọn vẹn, không tách rời từng bộ phận. Câu hỏi: mỗi con người đứng ở đâu trong dòng chảy của lịch sử.

đây những người đàn ông bị săn lùng dồn đuổi tận cùng tuyệt diệt
đây những người đàn bà bị chà đạp bị dày vò hãm hiếp
Thiên nhiên đối với anh là hiện thực đẹp đẽ hoang dại, dung hợp cao quý và dung tục. Chất dã thú trong thiên nhiên của Nguyễn Linh Khiếu là sự hồn nhiên nguyên thủy. Cái tàn bạo đáng sợ, tính ác, cũng có mặt trong thơ anh nhưng không nổi bật bằng tính cao quý, thiêng liêng, sự liên tục, như người mẹ.
ta có thể cầm nắm sự thật trên tay
ta có thể liếm lưỡi vào sự thật
ta có thể đong đầy sự thật trong hai mắt
anh yêu em chỉ là một khoảnh khắc

Thơ Nguyễn Linh Khiếu đầy cảm hứng khoảnh khắc, một thứ tự sự có khuynh hướng triết học, vốn mang tính siêu hình, trừu tượng. Như vậy những tư duy hình ảnh của thơ anh có thể dẫn đường đến tư duy triết học, là nhờ sự tiếp xúc không ngừng giữa người và người, người và vạn vật, sự tương tác giữa chúng có tính cụ thể, ngay lập tức.

dòng nước lạnh lẽo kia chẳng nói năng gì
Kỳ Cùng mùa đông tiếng thở dài vô bờ bến
những gì đã mất thỉnh thoảng đời ta lại mất
Thơ sinh thái đương đại, khác với cổ điển, là mối quan hệ tế vi giữa cảnh vật và ý thức, là sự trở về với thiên nhiên, sự làm mới lại một tâm hồn đi giữa cỏ cây, nguyên sơ, hoang dại, trong khi vẫn không từ bỏ những quan tâm khác, chính trị hoặc xã hội. Xung đột của thơ anh là xung đột giữa những người đi tìm sự toàn vẹn và quá trình phân rã tinh thần của xã hội Việt Nam.

một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân tộc đó là dân tộc súc vật

một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự hủy diệt mình

Những câu thơ như thế này hoàn toàn có thể được gieo xuống hoặc đọc lên một cách tự nhiên giữa những câu anh viết về sông Hồng, về quan họ, về bông mộc miên hay linh thảo hay khuôn mặt mê hồn của phụ nữ.

Đó là tính tích hơp. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, cảm giác, nhận thức, ấn tượng về nơi chốn là mạnh mẽ. Thơ của nhiều người cũng vậy, nhưng ở anh, nơi chốn không chỉ là đối tượng mô tả mà còn là một ẩn dụ, với những ý nghĩa bên dưới, chìm khuất; bài thơ của anh, vì vậy, trông lớn hơn kích thước của nó. Nhờ đâu có tác dụng ấy? Nhờ việc sử dụng sự biến đổi của các ý tưởng hay của cú pháp. Khi đọc chúng ta chờ đợi những mẫu thức đã xảy ra, như khi bạn đọc thơ lục bát, sau câu sáu tất phải đến câu tám, như khi bạn gặp một hình ảnh ví dụ vầng trăng, bạn sẽ nghĩ đến, mặt nước, sương mù, tiếng vạc ăn đêm. Tôi gọi đó là kỳ vọng (expectations). Nguyễn Linh Khiếu thay đổi các kỳ vọng, gây ngạc nhiên ở độc giả.
chẳng hiểu sao lần nào qua biên giới
mộc miên cũng rực đỏ triền sông, rực đỏ vách núi, rực đỏ tâm can
mộc miên đỏ một trời biên viễn
như máu tươi ròng rã ngàn năm
 
dưới gốc mộc miên người lính biên phòng cùng ta nâng chén
người xa nhà rượu ngô như lửa đêm đông
thanh vắng vẳng tiếng hoa tầm tã
khuya khoắt bóng ai rình rập dưới triền sông
 
có ai trồng mộc miên biên giới
hay biên cương cây tìm đến mọc lên
hoa cứ máu tươi suốt ngàn năm tê tái
cây cứ sừng sững mướt xanh cột mốc biên cương.
Phải lắng nghe thật lâu mới nghe ra "tiếng hoa tầm tã". Phải thức thật khuya mới biết nơi "biên cương cây tìm đến mọc lên". Phải canh cánh bên lòng mới thấy "khuya khoắt bóng ai rình rập". Tính chất kỳ lạ của cuộc chiến tranh nằm ở câu này. Nguyễn Linh Khiếu ít nói về bản thân mình. Cho đến khi anh chạm tới khái niệm tự do. Cái tôi Nguyễn Linh Khiếu là một cái tôi ý thức; ý thức của anh là ý thức tự do. Chính ở đây mà anh bước qua ranh giới giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Chính ở đây anh làm nên giá trị cốt lõi của tập Phồn sinh và những bài thơ khác. Thế giới của Nguyễn Linh Khiếu là một trường tương tác. Mặc dù gắn bó với thiên nhiên và nông thôn, nhà thơ không hề xa rời đời sống đô thị bộn bề, và một xã hội ngày càng quay cuồng điên đảo, với những vấn nạn xã hội và chính trị, nhưng anh biết dừng lại đúng lúc. Thái độ công dân và thái độ của văn chương có thể khác nhau, nhưng khi chúng đồng nhất, Nguyễn Linh Khiếu bộc lộ khả năng sử dụng một ngôn ngữ vừa khái quát, trừu tượng, vừa trực tiếp.
làm thế nào thì phải đánh nhau
làm thế nào thì không phải đánh nhau
Đó là anh nói về quá khứ hay về tương lai? Tôi nghĩ, cả hai. Thơ anh, như thế, đầy nhận thức, các thông tin, hiểu biết, chứ không phải chỉ là sự mô tả thế giới bên ngoài. Việc làm mới ngôn ngữ ở Nguyễn Linh Khiếu dừng lại ở việc anh tạo ra được những câu thơ đẹp nhưng hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc văn phạm. Tôi mong được thấy nhiều hơn nữa những biến đổi hình thức, sự tương tác giữa câu thơ và câu ngữ pháp, mong được thấy nhiều hơn những ngạc nhiên trong câu, sự bất ngờ khó tiên đoán, các khúc quanh ý tưởng, sự đột ngột của các hình ảnh.
Tư tưởng của bạn phóng khoáng: bạn cần một ngôn ngữ bất cẩn.
Có một quan hệ giữa các bài thơ, làm cho tiếng nói của nhà thơ trở nên thống nhất, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến việc lặp lại chính mình. Tôi tin nếu các nhân vật trong thơ hiện rõ khuôn mặt của họ hơn, những tiếng nói khác nhau được vang lên gần hơn, thì câu chuyện mà anh kể lại sẽ thuyết phục. Câu hỏi là: liệu điều này có làm anh rời bỏ tính trữ tình hay không? Chỉ có nhà thơ mới trả lời được. Một cấu trúc tự sự tốt đẹp giữ cho tiếng nói vang vọng nhiều lần, các hình ảnh được chiếu sáng, trong khi một cấu trúc kém sẽ làm mai một các cảm xúc tươi ròng.
nây nẩy những bắp non tươi ẩn hiện
mùa nước sinh đang hổn hển trở về
Vui thú và hân hưởng là đặc trưng của thơ Nguyễn Linh Khiếu: hối hả, thúc giục, ca ngợi, hào sảng, tự do. Không phải người nào cũng khao khát tự do; đối với nhiều người, những thứ khác quan trọng hơn: thói quen, sự an thân, danh vọng, miếng ăn, quyền lực, tín ngưỡng. Tính hồn nhiên là bản chất của tạo vật, sự tự nhiên là âm nhạc của trời đất. Thời ấu thơ chúng ta từng sở hữu tính chất hồn nhiên, khi lớn lên chúng ta đánh mất.
không có tự do mọi sáng tạo thi ca chỉ là văn tế
mọi sáng tạo văn chương chữ nghĩa chỉ là điếu văn
mọi sáng tạo âm nhạc chỉ là bát âm nhạc hiếu
mọi sáng tạo điện ảnh chỉ là trình diễn nghi lễ cầu cúng nghĩa địa
Thơ anh dày đặc chữ, đó là một thi pháp rậm rạp (macro), bao gồm những câu tự do và thơ văn xuôi. Nhiều người tin rằng thơ là khởi đầu của ngôn ngữ. Âm thanh của một chữ khi được nhân loại sinh ra gây cảm giác vui thú, phù hợp với ý nghĩa mà nó biểu trưng. Tuy vậy qua nhiều thời kỳ các nhà thơ bao giờ cũng có một cố gắng, đó là làm cho ngôn ngữ thơ trở nên khác đi so với tiếng nói hằng ngày. Một ngôn ngữ mới lạ sẽ tạo ra cảm xúc mới, và do đó làm giàu tiếng Việt. Các nhà thơ khác nhau ở chỗ sau một vài chữ mở đầu, các chữ về sau trong một câu có thể đoán trước được hay không. Những câu thơ cũ, chúng ta đoán được. Ở những câu thơ mới, bạn không đoán được. Đó là vì chữ mới, ý tưởng mới, hay hình ảnh mới. Đây là một trong những quan điểm của nhà ngôn ngữ học Lotman.
là mỡ màu ta đả đảo những ngăn cấm chia cắt cục bộ địa phương
là mỡ màu ta đả đảo phong kiến tối tăm cha truyền con nối gia đình trị
là mỡ màu ta đả đảo những giới hạn những định kiến những qui định những khuôn mẫu những già nua những cỗi cằn mốc meo mục ruỗng những giả dối nhân danh lừa phỉnh
là mỡ màu ta cổ vũ tự do
là mỡ màu ta cổ vũ dân chủ
Tiếng nói của Nguyễn Linh Khiếu dữ dội mà vẫn đĩnh đạc, đôi khi mượt mà, là một tấm lụa dệt bằng tiếc thương, đau đớn bàng hoàng, lòng thương cảm. Nhưng đó không phải chỉ là dải lụa, không phải chỉ có tình yêu, còn là ý thức đề kháng: chống lại cái xấu, cái ác, cái độc tài, bất nhân. Anh chống lại những kẻ chống lại nhân dân. Không một quan hệ nào giữa người và người mà bình đẳng cho bằng tình yêu. Đọc thơ anh, có thể thấy hai quá trình, ca tụng và phản tỉnh, thưởng thức và thách thức, phồn sinh và hủy diệt. Đó là một bút pháp ở khoảng giữa hiện đại và hậu hiện đại.
thời đại của lịch sử đẫm máu những trời đẫm máu những đất đẫm máu những biển đẫm máu những núi đồi đẫm máu những bình minh đẫm máu những ban trưa đẫm máu những hoàng hôn đẫm máu những đêm khuya đẫm máu những quốc gia đẫm máu những địa danh đẫm máu những dòng sông đẫm máu những thành phố đẫm máu những bản làng đẫm máu những phố thị đẫm máu những thôn dã đẫm máu những cánh đồng đẫm máu
Một người thường xuyên tra vấn các nhầm lẫn lịch sử, xem xét lại các giá trị, thế nào cuối cùng cũng có lúc, dù chỉ đâu một lúc, thấy mình là một với chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại cũng là cái bẫy nhung: không một sáng tạo nào không trở thành thói quen, không một ngôn ngữ mới nào, dù mới đến đâu, mà không ghét bỏ sự thách thức đối với chính nó. Bài thơ là đối thoại giữa tác giả và một nhà thơ đi trước. Nhiều người tin vào sự màu nhiệm của sáng tạo, như kiểu nữ thần thơ ca, huyền bí, nhưng thực ra quá trình sáng tạo bao giờ cũng gồm hai phần, phần được chiếu sáng và phần vô thức. Khi một bài thơ xuất hiện, nhà thơ đứng trước hai lựa chọn, hoặc biến nó thành người phát ngôn cho ý niệm, hoặc buông thả cho bài thơ hình thành trôi nổi, vô mục đích. Hướng đi của bài thơ được quyết định vào giây phút khó khăn ấy. Hãy nghe anh nói về chiến tranh. Và không phải chỉ chiến tranh.
trên tất cả thông tấn báo chí phát thanh truyền hình
trên tất cả các diễn đàn các hội nghị hội thảo tọa đàm giao lưu gặp gỡ
trên tất cả văn chương sân khấu điện ảnh nhiếp ảnh hội họa
trên tất cả các lễ hội sinh hoạt cộng đồng
trên tất cả các lớp học giảng đường hội trường tiền sảnh
trên tất cả các nhà trẻ các lớp mầm non các lớp mẫu giáo
trên tất cả các lớp tiểu học các lớp phổ thông cơ sở các lớp phổ thông trung học các trường dạy nghề các trường trung cấp các trường cao đẳng các học viện các trường đại học
vẫn đằng đằng sát khí
vẫn mịt mù khói lửa chiến tranh
vẫn loảng xoảng súng đạn
Bất kỳ một biến đổi về cấu trúc nào cũng gây ra tình trạng áp lực, khi ấy người đọc không còn chắc chắn về hướng đi của bài thơ nữa: sự êm ái của thơ Việt từ đây buộc phải thay đổi. Một đặc điểm của Nguyễn Linh Khiếu là, tuy vậy, những câu thơ của anh được sắp xếp sao cho hợp lý, ngay những câu dài nhất, ngữ pháp vẫn không rắc rối, vẫn sáng sủa. Bức tranh của anh hấp dẫn nhưng dễ hiểu, thiếu các nếp gãy nứt. Cánh cửa sẵn sàng mở ra trước người đọc, vừa là ưu điểm vừa là khuyết điểm. Tư duy thơ anh là một tư duy hiện đại- tuyến tính, mặc dù vậy, với chủ ý hay không , anh đôi lần vượt qua giới hạn của nó, tạo ra tình trạng khác.
dòng nước lạnh lẽo kia chẳng nói năng gì
Kỳ Cùng mùa đông tiếng thở dài vô bờ bến
những gì đã mất thỉnh thoảng đời ta lại mất
Các hình ảnh của anh đẹp như hội họa, không yên tĩnh mà vận động quanh các chủ đề. Anh nhìn sự vật trong chi tiết cụ thể, cảnh vật mà anh mô tả là cảnh vật của tâm trí, cái mà Mặc Đỗ đặt là tâm cảnh. Chúng ta có những vùng châu thổ lớn, sông Hồng, sông Cửu long, những làng mạc quanh sông khắp ba miền đất nước, vì vậy cảnh vật trong thơ anh không xa lạ gì với người Việt. Nhưng sự mô tả ấy không chỉ là mô tả, chúng hướng tới câu hỏi siêu hình, gợi lại cho người đọc biết bao nhiêu suy nghĩ về con người.
khi đó con người là thức ăn của ba ba thuồng luồng hay ba ba thuồng luồng làm thức ăn của người
ta làm sao hiểu được Sông Hồng thuở xa xưa
sông Hồng thuở ta chưa từng có
không có ta liệu có Sông Hồng hay không
không có Sông Hồng liệu có ta hay không
Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, qua chữ “phồn sinh” do anh tạo ra, như một quan niệm, lịch sử được tái xây dựng. Sông và cánh đồng, cây cỏ và gió bão không chỉ là bản thân chúng, mà còn là mùa màng, nhịp điệu của đất nước nông nghiệp, của đời sống thôn xóm, sự hiện diện và trở về của người chết, sự nhớ lại. Trong một xã hội chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, đời sống người Việt gắn bó với thôn quê, với thiên nhiên, mùa màng, vì vậy khi anh nói về đất nước, anh nâng khái niệm đất nước lên thành một khái niệm ngôn ngữ và văn hóa. Lịch sử đất nước trong thơ anh trở thành lịch sử thơ ca.
Đặc tính lớn của thơ Nguyễn Linh Khiếu là ở đây: anh lấy sự ca ngợi làm hình thức phản kháng, cái nhìn của anh nghiêng về cái tốt đẹp, nhưng không bao giờ rời bỏ ý thức phê phán đối với hiện thực. Thơ anh có thể đi trước nhiều người cùng thời một bước, về khía cạnh này. Tôi cũng nghĩ quan niệm phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu có hai nguồn gốc: tín ngưỡng phồn thực hay văn hóa phồn thực, đó là tín ngưỡng ca tụng sự sinh sôi nảy nở, sự giao hợp của người, muông thú, thực vật, và thứ hai là, các điển lễ và hình tượng đi kèm chúng. 
những giống đực thiêng liêng
những giống cái thiêng liêng
những cặp đôi thiêng liêng
những nhịp điệu giao phối thiêng liêng
 
chẳng có gì trong thế giới này vĩ đại
và thiêng liêng hơn đực cái
Quan niệm phồn sinh, phồn thực, tôi nghĩ, không xa tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là sự kính trọng và yêu mến sự sống muôn loài. Lòng nhân ái đối với con người, phát triển thành lòng yêu thương đối với vạn vật, trong đó có tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa anh chị em, bà con, lối xóm. Ở phương Tây tình yêu ấy tạo thành các cuộc cách mạng, ở phương Đông nó tạo thành những thay đổi cá nhân, sự tiến triển của tâm hồn mỗi người. Khi tôi nói Nguyễn Linh Khiếu gần với tư tưởng Phật giáo là nói về mặt sinh thái học, nhưng tư tưởng Phật giáo khác với khuynh hướng sinh thái học hiện đại. Tư tưởng Phật giáo quan tâm đến thiên nhiên như một hiện hữu thường hằng, tác động của thiên nhiên đối với con người, trong khi sinh thái học hiện đại ngược lại, quan tâm nhiều hơn đến tác động của con người đối với thiên nhiên.
ta sống một giây thế giới này chỉ có một giây
ta sống một phút thế giới này chỉ có một phút
ta sống một giờ thế giới này chỉ có một giờ
ta sống một ngày thế giới này chỉ có một ngày
Không có gì xảy ra trong bài thơ này, thế mà dường như mọi thứ đều chuyển động. Nếu chúng ta nhận biết bản tướng của thế giới, chúng ta sẽ biết chúng ta đứng ở đâu trong thời gian và không gian, chúng ta biết cần phải hành động như thế nào trong sự hòa hợp với cái khác, người khác, vật khác. Trên đường đi tìm hòa hợp giữa cái ta và cái khác, Phật giáo tìm ra nguyên lý bất nhị. Thơ Nguyễn Linh Khiếu là một kiểu hành thiền khác, thơ mộng, an trú trong hiện tại, tăng cường nhân cách của con người. Thay đổi là nền tảng của sự vật. Chính nhờ nhìn thấy sự thay đổi của vật mà con người có thể an trú trong rỗng không, mất mát, tạm thời. Quan niệm vô thường ấy chiếu rọi bản thể của sự vật, dưới sự quan sát thận trọng và chăm chú, sự quán tưởng, hành giả và thi sĩ sẽ nhìn thấy ở thời gian những khắc thời gian nhỏ bé, những khoảng cách li ti. Trong sự dịch chuyển, thế giới làm nên bởi trống rỗng. Thế giới hiện hữu thì vật hiện hữu, nhưng đó là một hiện hữu kỳ lạ, tựa như giấc mộng.
Dọc con đường khất thực, các thí chủ quỳ gối trên những đệm mỏng trước cổng nhà mình chờ sẵn. Họ bao gồm cả đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ. Tất cả phải quỳ vì không ai được đứng cao hơn các nhà sư. Khi dâng lễ, người dâng cúng tuyệt đối không được ngẩng lên nhìn mặt nhà sư. Nhà sư sau khi nhận lễ chắp tay vái tạ và rì rầm đọc một đoạn kinh chúc phúc cho thí chủ thiện tâm, người dâng lễ cũng chấp tay trước ngực và vái chào nhà sư buổi sáng.
Nhiều bút ký, du ký và tùy bút của Nguyễn Linh Khiếu là những bài thơ văn xuôi (prose poems) thành công. Muốn biết sự sáng tạo của một nhà thơ, cần xem mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính độc đáo. Truyền thống là sự kế thừa từ những người viết trong quá khứ, đôi khi như một ân huệ, đôi khi gánh nặng. Khi viết, bất kỳ nhà thơ nào cũng tìm cách vượt ra khỏi cái bóng của người khác, cái m à Harold Bloom gọi là anxiety of influence. Ngôn ngữ là một lịch sử, mỗi chữ đều chứa trong nó nhiều cuộc đời, nhiều ý nghĩa, những phân vân của người đi trước. Bởi vậy, viết bao giờ cũng là viết lại. Nguyễn Linh Khiếu không xa các truyền thống; các câu thơ có cấu trúc mạch lạc. Anh không tìm cách thách thức các mệnh đề, tôi ít khi thấy anh đảo câu, vì vậy chữ của anh đẹp, ít bất ngờ. Mặc dù nhắc tới đề tài văn hóa, anh lại ít khi sử dụng điển tích. Hai tính cách độc đáo của thơ anh, xét về hình thức ngh ệ thu ật: đầu tiên là việc sử dụng các câu thơ dài và nghệ thuật trùng điệp. Nhiều nhà thơ cũng dùng kỹ thuật này nhưng ở Nguyễn Linh Khiếu chúng được đẩy đến tối đa, và trong nhiều trường hợp, tối ưu hóa. Tính độc đáo thứ hai nằm ở các hình tượng lớn. Là một nghệ thuật của trường ca.
bao nhiêu nắng mưa bao nhiêu nóng lạnh bao nhiêu hưng vong
bao nhiêu xa hoa bao nhiêu lộng lẫy bao nhiêu tăm tối bao nhiêu bạo tàn
Thơ Nguyễn Linh Khiếu gần với Walt Whitman. Đó là một thứ hậu lãng mạn, khởi động tâm lý học và triết học về con người bằng tư duy tình dục. Viết về tình dục xưa nay vẫn khó; biết dừng lại đúng lúc là một trong những bí ẩn quan trọng của thơ tình dục. Nhưng phồn thực, các xúc động nguyên thủy, vốn chống lại lý trí. Đâu là tiêu chuẩn đạo đức và tiêu chuẩn cộng đồng? Người Việt cổ đại đối xử với tình dục như thế nào? Tình dục v ừa là văn hóa v ừa là chính trị, vừa là khởi thủy, vừa là kết tinh những phẩm tính cao cả. Các xúc động nguyên thủy có lẽ chưa phải là văn hóa, mà cũng không phải sự chống lại văn hóa, đó là điều gì đi giữa hai thứ ấy. Viết về phồn thực, phồn sinh, sự sinh nở, truyền giống, bất kỳ tác giả nào cũng cần am hiểu muôn khía cạnh của đời sống một cộng đồng, trong khi vẫn phải tự tin, thong dong đi giữa những cảm xúc cá nhân của mình. Viết là một hành động chống im lặng, là sự thách thức các trật tự truyền thống, chuẩn mực. Thơ Nguyễn Linh Khiếu trong khi ca ngợi rực rỡ những mối quan hệ giữa người và người, cha mẹ và con cái, người nam và nữ, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện tại và truyền thống, vẫn dựng lên thách thức đối với các giá trị, đặt ra những câu hỏi lớn, làm lay chuyển niềm tin, tái xây dựng các diện mạo, khơi gợi ở người đọc sự đánh giá lại.
Một bài thơ phải làm gì để đập vỡ các huyền thoại: tấn công vào sự không công bằng, những ảo tưởng. Trong một thời đại nhiễu nhương, thơ là nguy hiểm. Trong nhiều thời kỳ lịch sử ở dưới những nhà nước khác nhau, có lúc thơ ca bị cấm đoán. Đối với một xã hội tìm cách tước bỏ tâm hồn dân tộc ra khỏi đời sống văn minh vật chất của nó, sự phát triển kinh tế điên cuồng của nó, thơ là nguy hiểm. Bởi vì chúng tạo nên niềm tin vào cái giản dị, vào sự liên tục của số phận, vào sự thanh khiết, và do đó, là cổ vũ cao nhất đối với tự do.
giải phóng khỏi lừa đảo lưu manh
giải phóng khỏi giả nhân giả nghĩa
giải phóng khỏi dối trá mị dân
giải phóng khỏi áp bức cường quyền
giải phóng khỏi lễ nghi thần tượng
giải phóng khỏi ràng buộc khuôn phép
giải phóng khỏi u mê mộng mị
giải phóng khỏi lãnh đạo bề trên
Có nhiều kiến thức trong một bài thơ của Nguyễn Linh Khiếu, những kiến thức về cây cỏ, chim muông, về đồng bằng sông Hồng, về địa lý, về khí quyển, có những kiến thức về lịch sử, về con người, về nhân chủng học. Tôi cho rằng anh là một trong những nhà thơ biến thơ ca, nhất là những bài thơ dài và trường ca, thành một thứ tùy bút, tiểu luận, phê bình. Thơ trữ tình thành một nghệ thuật quan sát và ngược lại, lyric narrative. Sự nhạy cảm trong thơ trở thành nhận định chính xác khách quan, trở thành những quan sát hóm hỉnh và thông minh. Một người có tầm nhìn:
khi đó Sông Hồng chảy từ núi xuống hay chảy từ biển lên núi đồi
từ đất lên trời hay từ trời xuống đất
khi đó dòng sông chảy dọc hay chảy ngang
khi đó dòng sông uốn lượn hay một dòng thẳng tắp
Bài thơ tạm dừng lại. Sau khi nó đã triết lý, đã ca hát, đã chạy trong những máng xối như nước, đã thổi qua khe núi như gió, bài thơ dừng lại như người giữa hai giờ làm việc, ngồi xuống trên cỏ. Bài thơ có lúc dừng lại như vậy. Phản ứng, áp lực. Sự không thỏa mãn. Như vậy khi một bài thơ dừng lại ở chỗ nghỉ, đó không phải là sự nghỉ tuyệt đối. Sóng trên mặt lặng xuống, lực chảy luồn dưới đáy. Trung tâm của bài thơ là hình ảnh quan trọng nhất, một ý tưởng vươn lên thành hình ảnh, không phải một nhãn tự. Nguyễn Linh Khiếu ít có những câu độc lập có thể trích riêng ra được. Khuynh hướng các nhà thơ hiện nay đều thế. Các câu nương vào nhau như một hệ thống, bạn không trích xuất một cách dễ dàng. Sự mô tả trong thơ nặng thuyết phục, giọng kể lưu loát, hình ảnh dày đặc, giọng ấy là giọng hát, ca ngợi, sử thi.

mưa ròng ròng trên thịt da tinh khiết

thịt da ta mười ba

thịt da nàng mười ba

mười ba tuổi thịt da bồi hồi trong mưa

mười ba tuổi mưa thổn thức trên thịt da ngùn ngụt

Đời sống của nghệ sĩ là nguồn gốc của những bài thơ. Sự sáng tạo xảy ra cùng lúc giữa người làm thơ và những vật liệu anh chạm tới. Những vật liệu ấy như có linh hồn, thay đổi. Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào có giá trị cũng đều lăm le xuyên qua biên giới của sự hiểu biết, đặt chân vào huyền bí. Dù đó là thơ hay tiểu thuyết, kịch hay truyện chớp, bao giờ cũng có một phần gần như linh thiêng của ngôn ngữ chờ bạn ở đó, bạn như một người đọc. Thơ anh đôi khi có cái hư hư ảo ảo, mờ nhạt. Thơ anh là cuộc đối thoại, lời tâm tình mang tính đối thoại, giữa tác giả và người đọc, giữa con người và hoàn cảnh, giữa lịch sử và cái lẽ- ra- nên- là lịch sử. Những đối thoại ấy, thân mật nhưng thẳng thắn, nơi người nói đặt hết lòng tin vào kẻ khác, xâu chuỗi các bài thơ. Đó là tính thuyết phục trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, vì đối thoại làm cho sự tiếp xúc giữa người viết và người đọc tăng lên, người đọc hóa thân thành tác giả, cùng xúc cảm, lo nghĩ như anh.
vì sao phải đi thật xa chúng ta mới là mình
phải đến nơi không ai biết mình ta mới có một chút tự do nhỏ bé
Ngay cả khi anh tuyên bố, kêu gọi, điều mà anh thường làm, thì giọng của anh vẫn mở ra khả năng đối thoại. Ngay cả khi anh nói về những cái to tát, thì chất giọng ấy vẫn tâm tình.
chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì con người mới thực sự là con người
chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì dân tộc mới thực sự là dân tộc
khi nào không có hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì con người còn phải đi tìm giá trị của mình trên khắp thế gian

Nguyễn Linh Khiếu là người đi tìm những khoảnh khắc giao hòa giữa cái tôi và tha nhân. Anh chú ý tới khoảnh khắc, làm sống lại chúng, tìm cách đặt chúng vào tấm thảm dệt của thời gian, không phải để giải thích mà để tự mình và người đọc có thể sống lại giây lát ấy, thuyết phục người khác về vẻ đẹp của chúng, của sự tồn tại trong thời gian, vẻ đẹp của nhịp điệu. Anh thường xuyên băng qua các ranh giới, ngã ba, ngã tư, kiên nhẫn và xông xáo, hồn nhiên và có chủ đích, tìm kiếm bằng được trong hiện tại khuôn mặt của quá khứ. Vì từ một khoảnh khắc, thơ có thể nhìn thấy vĩnh hằng.

đối diện với nàng ta khám phá ra mình

ta đồng hiện một chân dung cuộc sống

một khuôn mặt hiện ra một đất nước hiện ra

đất nước của mưa thuận gió hòa trời yên biển lặng

đất nước của bốn mùa xuân hạ thu đông thánh thót hoa thơm trái ngọt

Nguyễn Linh Khiếu ít nói về thân phận cá nhân. Tôi không mấy khi thấy anh thất tình. Anh ít nói về xúc cảm âm tính. Đó là một giọng thơ khỏe, “vui”, hiếm gặp trong thơ Việt từ trước đến nay. Khi vui, người ta ít sâu sắc, nhưng Nguyễn Linh Khiếu thì ngược lại, bàng bạc trong thơ anh những trầm tư lạ thường, sâu xa, quyết liệt. Anh hướng nhiều hơn đến cõi đời, nhịp thở non sông đất nước, lòng lo toan xã hội. Đó là một thứ thơ hướng ngoại, nhưng dù hướng ngoại, lại không tách mình ra khỏi thiên nhiên. Người khác biến thế giới nội tâm thành ngoại cảnh, trong khi Nguyễn Linh Khiếu biến ngoại cảnh thành nội tâm: anh nhìn thấy số phận mỗi cá nhân qua số phận cộng đồng, anh nhìn thấy sự suy tàn của mặt đất như những giá trị đạo đức suy tàn, anh lấy tình nghĩa cỏ cây làm tình nghĩa con người. Anh thiết lập các mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn.
để tồn tại trên thế giới này
để khám phá ra khuôn mặt mình
để xứng danh một đàn ông đích thực
để chứng tỏ kho giống nòi quí báu nhân loại
ta phải bắt đầu từ khuôn mặt thiếu nữ
Nguyễn Linh Khiếu sống trong hiện tại bão táp, không sợ cái hiện tại ấy vì anh đặt nó trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Trong một giọng thơ đôi khi nồng nhiệt, đôi khi trầm lặng, tôi ít thấy sự uể oải phế tàn, tuyệt vọng, hay ngược lại, dửng dung, cười cợt, chế nhạo. Khi quay về với đời sống nội tâm, anh có giọng thơ lạ, vượt qua quy ước, lay động sự bình an ở người đọc.
những thời đại giả danh dân chủ con người chẳng biết sống chết thế nào
những thời đại giả danh dân chủ con người vô cùng hoang mang vô cùng bế tắc vô cùng hoảng loạn vô cùng khiếp sợ vô cùng bi đát vô cùng tuyệt vọng vô cùng không còn là con người
Nguyễn Linh Khiếu nhìn ra sự khác biệt giữa tối và sáng, giữa sự thật giữa và cái giả tạo, chúng ngày một đầy rẫy trong xã hội chúng ta, và ít ai nói được như anh. Thơ ấy hãy còn ít chất hài hước, sự châm biếm, chất dân gian đường phố; cảm xúc chủ đạo vẫn là từ một tâm trạng suy nghĩ, đĩnh đạc nhiều hơn bông lơn, mang tính hiện đại chủ nghĩa. Anh có một niềm cảm hứng đối với những tình cảm lớn: tự do, quê hương, số phận con người, lịch sử, sự bạo động, các tội ác, tình yêu tự do, tình dục tự do, phồn thực, nguyên sơ, cái tốt đẹp. Tựa như cuộc trở về nguồn cội, nhưng cũng lại như hành hương tôn giáo, đi tới vùng đất lạ để chiêm ngưỡng niềm tin. Một thứ thơ gần siêu thực hoặc huyền thoại.
trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta rực rỡ sắc màu Sinh sôi
vang lừng âm thanh đâm chồi nảy lộc
sôi động thanh điệu cường tráng
xao xuyến giai điệu cành la cành bổng
lộng lẫy sắc màu căng mẩy
tràn trề tinh thần luyến ái
Nguyễn Linh Khiếu viết nhiều câu thơ tiếp cận văn xuôi, có thể xem là thơ xuôi. Không có gì đáng ngạc nhiên là nhiều người nghĩ rằng thơ anh là sự ca ngợi sự phồn thịnh của đất đai, sinh nở, của nòi giống. Tất nhiên điều ấy là đúng, nhưng không diễn tả hết những khía cạnh khác của Nguyễn Linh Khiếu: yếu tố trí tuệ, sự phê phán, sự cảnh tỉnh, sự so sánh các giá trị, lòng khao khát tự do, cuộc chiến đấu thầm lặng của anh. Làm thế nào để không bi quan trong thời đại này? Làm thế nào nhân dân được quyền nói thật và có quyền nghe sự thật?
do công việc nhiều lần ta đến nhà một vị tướng
dáng vóc ông nhỏ nhắn
phong thái ông nhân hòa
tinh thần ông lão thực
đời sống ông giản dị
giọng nói ông ôn tồn
 
ông ân cần tận tâm như một ông giáo làng
ông thân thiết bao dung nhân từ như cha
ông hiền hòa độ lượng như một người ông
ông khoan thai ung dung tự tại như một tiên ông
 
không biết lực lượng nào trú ngụ trong ông để ông ra quyết định
những trận đánh vĩ đại của ông hàng ngàn người biến khỏi mặt đất
mỗi chiến thắng đẫm máu của ông
khăn tang trắng xóa mặt đất
 
mỗi lần bắt tay ông ra về
bàn tay ông nhũn nhùn lạnh ngắt
bỗng nhiên lạnh buốt sống lưng nổi da gà
 
quốc gia tuy lớn mạnh hiếu chiến tất diệt vong
một dân tộc tìm vinh quang trong chiến tranh chém giết đó là một dân tộc hạ đẳng
một dân tộc hung hăng hiếu chiến luôn luôn đi xâm lược luôn luôn khủng bố luôn luôn gây chiến luôn luôn đè đầu cưỡi cổ dân tộc khác đó là dân tộc man rợ dã thú
một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân tộc đó là dân tộc súc vật
một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự hủy diệt mình
 
mỗi khi chiến tranh xẩy ra thú tính được tôn vinh con người hiện nguyên hình đó là loại thú dữ man rợ
trong chiến tranh ai giết được nhiều đồng loại đó là người lập được nhiều chiến công người đó là dũng sỹ người đó là anh hùng người đó sẽ được tôn vinh được ca ngợi trở thành thần tượng trở thành lãnh tụ
trong chiến tranh thần tượng của mọi người là dũng sỹ là anh hùng là người được tôn vinh là tướng soái là chỉ huy là lãnh tụ
trong chiến tranh thần tượng của cả thời đại là những hung thần
 
tất cả mọi người bị giết trong chiến tranh đều do lãnh tụ
tất cả mọi người sống sót trong chiến tranh đều ngoài ý muốn các lãnh tụ
lãnh tụ là người phát động chiến tranh
lãnh tụ là người tiến hành chiến tranh
lãnh tụ là người chấm dứt chiến tranh
trong chiến tranh tất cả mọi người có mặt trên chiến trường nhưng lãnh tụ ở nơi an toàn nhất
Một bài thơ không có kết luận có mang chúng ta lại gần nhau hơn, với những câu hỏi trong đó không? Những bi kịch của hòa bình và cuộc chiến tranh dai dẳng không những đã chia rẽ một dân tộc, mà còn xé rách lịch sử ra nhiều mảnh, tàn phá các cộng đồng, xóa trộn chúng. Tập thơ Phồn sinh là những trải nghiệm cá nhân của thi sĩ ở vùng châu thổ sông Hồng, thơ ấy nói thay cho người chết, nói thay cho những mất mát, thơ ấy nói thay cho hy vọng. Cuộc đời rộng lớn hơn bài thơ, rộng lớn hơn triết học, hơn bất kỳ một lý thuyết cách mạng xã h ội nào.
ta hạnh phúc trong từ trường 23o5 nghiêng của trái đất
ta chẳng bao giờ thăng bằng cứ chênh vênh run rẩy sắp sửa đổ ngã
trong thế giới nghiêng ngả
hạnh phúc là những khoảnh khắc không cân bằng
Trong thơ anh, có những cửa sổ, ở đó các sự kiện xảy ra bất ngờ. Chừng nào các sự kiện ấy xuất hiện m ột cách tự nhiên, bài thơ liền được nó dẫn đi, nhận được năng lượng từ nó. Tôi hy vọng trong những tác phẩm sắp tới, Nguyễn Linh Khiếu phát triển hơn nữa khả năng của anh: sự quan sát tinh tường, sự lắng nghe sâu, sự phê phán có tính xã hội và lịch sử, tính trữ tình thế sự.
ta ra đi từ châu thổ Sông Hồng
miền lúa nước huy hoàng
miền trâu nước hùng vĩ
miền chim nước sặc sỡ
miền nhân nước phì nhiêu
miền thủy sinh phi thường
miền lưỡng cư mộng mị
nơi vị thần tình yêu ngự trị
ngôi đền yêu bất tử miên man nhiệt đới miên man gió mùa
Ngôn ngữ thơ và cảnh vật đồng bằng sông Hồng, tạo ra một quyền năng lớn lao, của sự hoà điệu và sự cô độc. Nguyễn Linh Khiếu sở trường về việc làm bộc lộ tính yếu đuối, sự dễ đổ vỡ, tính thương tổn của thiên nhiên, một thiên nhiên có con người ở bên trong, đi lại, cười nói, sống và chết, làm tình, thù hận, tha thứ.
truyền giống là hành vi truyền thống
truyền giống là hành vi hiện đại
truyền giống là hành vi hậu hiện đại
Trong nhiều bài, anh cũng có lạm dụng điệp ngữ và lấp láy.
Một bài thơ có thể xóa nhòa người đọc hay có thể làm tác giả biến mất. Hay là ngược lại, ngôn ngữ thơ ca làm chúng ta thấy nhau rõ ràng hơn, tin cậy hơn, mặc dù một bài thơ không bao giờ có những kết luận. Bài thơ là một tổ chức phức hợp, gồm âm điệu, chữ, ý tưởng, hình ảnh. Bạn lắng nghe một bài thơ trước khi hiểu ý nghĩa của nó. Bạn thích bài thơ trước khi biết tại sao. Sự duyên dáng, tức là tập hợp các cử động, sự chuyển động nhịp nhàng, là sức hấp dẫn đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đối với người khác. Tuy vậy sức mạnh bên trong của bài thơ là cảm xúc.
ta sinh ra nơi châu thổ Sông Hồng
dòng mẫu hệ ngàn đời mênh mông bao dung chảy xiết
mẫu hệ là nhân từ
mẫu hệ là thịnh vượng
mẫu hệ là bản sắc
mẫu hệ là nguyên lý sắc tộc
Nguyễn Linh Khiếu là người yêu ngôn ngữ, mặc dù vậy anh không phải là người chủ trương lấy ngôn ngữ làm trung tâm. Đó là một loại thơ dũng cảm, là tiếng nói chân thực của một nhà thơ công dân, là cái nhìn thấu suốt các duyên nợ, nhân quả, tìm cách mở nút thắt của các trò chơi lịch sử, dấu vết của tội ác, bộ mặt của thỏa hiệp.
40 năm
chiến tranh vẫn nằm chềnh ềnh trên mảnh đất này không chịu ra đi
40 năm
chiến tranh vẫn không ngừng quay cuồng tiếp diễn
những nhảy nhót vặn vẹo cụt chân cụt tay
những gương mặt tối tăm không mắt
những thịt da khâu vá chằng chịt
Các hình thức nghệ thuật được cảm nhận thông qua mối quan hệ của chúng với quy ước, sức đề kháng với thói quen cũ kỹ. Nếu việc làm mới được cho là quan trọng hơn cả, ngôn ngữ thơ có thể trở nên tối tăm, mù mịt, bài thơ lạc lối. Ngược lại, nếu không quan tâm đến chuyện mới hay cũ, nhà thơ dễ dàng rơi vào bẫy của những cảm xúc và lối nói quen thuộc. Nguyễn Linh Khiếu đi nhiều, những hiểu biết văn hóa của anh rộng rãi, tôi tin rằng anh đã từng đến chiêm ngưỡng những đền đài tôn giáo và những chốn thờ phượng linh thiêng, của dân tộc và nhân loại, tôi tin rằng anh đã nhận được ở đó nhiều điều mà tôi không thể gọi tên. Thay đổi là trống rỗng, vốn là bản chất của sự vật. Khoảng trống rỗng ấy là nơi gặp gỡ giữa tâm hồn và thân xác. Tôi nhìn thấy trong thơ anh tính bất đối xứng, sự triển nở nguyên sơ, sự vận động của các huyền thoại, khía cạnh thiêng liêng huyền bí của nhục cảm. Có một thiên nhiên riêng biệt của Nguyễn Linh Khiếu, những sông núi của quá khứ, bị ám ảnh bởi những câu chuyện được kể lại qua nhiều thế hệ, nhuốm đầy chất tín ngưỡng, các cổ mẫu văn hóa, nhịp điệu cơ thể.

cơ thể mỗi phụ nữ là một hoàn mỹ duy nhất

cơ thể mỗi phụ nữ là một viên mãn cao quý

cơ thể mỗi phụ nữ đều kỳ diệu phi phàm

cơ thể phụ nữ đó là kho báu bí mật vô tận nhân loại không bao giờ khám phá hết

cơ thể phụ nữ chính là bí mật vĩ đại nhất của thế giới này
Sự giải thoát khỏi những đau khổ xảy ra ở cấp độ cá nhân cũng như toàn xã hội. Tác động của chiến tranh, ô nhiễm môi trường, bạo lực xã hội, phát triển vô tội vạ, sự tham lam và các chính sách phục vụ cho chúng, sự kém hiểu biết đối với thiên nhiên, sự tiết mạn, góp phần to lớn vào tình trạng vô minh của mỗi cá nhân. Thơ đi tìm lại sự cân bằng, từ chối sự chiếm đoạt của con người đối với thiên nhiên, chống lại tình trạng đô thị hóa bừa bãi, không phải là chống lại sự tiến hóa văn minh mà ngược lại đó là cách duy nhất để giữ cho con người hạnh phúc trong một thời đại thay đổi. Những cố gắng tương tự bắt nguồn từ lý thuyết bất nhị tin rằng ta và tha nhân, xã hội và môi trường, quá khứ và tương lai, cái ta và cái khác,

Nguồn tin: HNV

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây