MỘT CHẶNG DƯ LUẬN VỀ "SÓNG ĐỘC"
(Lời đề dẫn Tọa đàm)
1. Chương trình Tọa đàm về đời sống văn chương Thủ đô qua các tác phẩm văn, thơ, lý luận phê bình và dịch văn học hàng năm luôn được BCH Hội Nhà văn đặt ra như một công việc hàng đầu trong nhiệm vụ công tác của mình. Có lẽ không có gì hơn là tất cả: từ mục tiêu, kế hoạch và tổ chức thực hiện mọi việc đều nhằm đi đến một kết quả là có những tác phẩm thật hay, thật tầm vóc, kế tiếp vào dòng chảy văn hóa Thăng Long, xây dựng đời sống mới người Hà Nội hôm nay.
Chúng ta đón nhận ở Tác phẩm văn học, trước hết là kết quả, là thành tựu lao động sáng tạo của tác giả, hai là đón nhận ở đó nội dung mang đậm bản chất về đời sống văn hóa xã hội, thậm chí còn phát lộ cả những dự báo mới nào đó. Đối với công tác lý luận, phê bình thì việc tập hợp các tác phẩm điển hình ở một thời kỳ, một giai đoạn, hay thậm chí về một mảng đề tài…là hết sức quan trọng bởi qua đó, ngoài nội dung phản ánh hiện thực, chúng ta còn nhận ra, còn tìm thấy một khuynh hướng sáng tác mới và mặt khác, phát hiện cả xu hướng về nhu cầu cảm thụ giá trị văn hóa của công chúng đương thời… Còn riêng với từng tác giả, việc tổ chức, trao đổi ý kiến về tác phẩm đã trở thành một mốc khẳng định quá trình sáng tác, cá tính sáng tạo và để tiếp sức cho bước đi mới. Trong trường hợp cụ thể này, chúng ta chọn tập tiểu thuyết Sóng độc của Nhà văn Trần Gia Thái để cùng tọa đàm với dư luận chung ban đầu là một tác phẩm tiêu biểu, có ý nghĩa thực tiễn cũng như tài năng văn chương đã đến tay bạn đọc và công chúng.
2. SÓNG ĐỘC - Tiểu thuyết của Nhà văn Trần Gia Thái, NXB Hội Nhà văn 2022 (gồm 17 chương, dày hơn 400 trang sách) . Đây là tập tiểu thuyết được bạn đọc và dư luận hết sức quan tâm. Đã tạo điểm nhấn nổi bật trên văn đàn Thủ đô Hà Nội và cả nước thời gian qua. Sức cuốn hút của nội dung và nghệ thuật của nó đã khẳng định thêm những giá trị mới trong dòng chảy văn chương đương đại.
Trong bối cảnh của những năm vừa chống Covid-19 lại vừa chống tham nhũng, đổi mới quản lý hành chính trên hành trình hòa nhập vào cuộc CM 4.0, hạn chế tối đa các thủ tục đã từng nhiều năm gây phiền hà, nhũng nhiễu cư dân… Nội bộ khá nhiều ngành cấp phát hiện vụ việc lợi dụng vị trí công tác, mưu toan chiếm đoạt tiền bạc, tài sản Nhà nước và của công dân. “Sóng độc” đã kịp thời đến tay bạn đọc như người bạn đồng hành trong cuộc chiến ấy - cuộc chiến giữa cái đúng và cái sai, cái thiện và cái ác - tạo sức hấp dẫn và sự đồng tình của công chúng.
Tin về cuốn Tiểu thuyết vừa được NXB Hội Nhà văn phát hành và biết Nhà văn Trần Gia Thái làm việc tại Hội Nhà văn Hà Nội, nhiều bạn đọc đã gọi đến Văn phòng hỏi mua tập sách. Bên đó là những lời tham góp xen lẫn ở những buổi sinh hoạt chuyên môn. Song đáng chú ý là khoảng 15 bản tham luận của các Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà văn, Nhà báo và Nhà phê bình văn học đang sống và làm việc tại Hà Nội tạo nên một diễn đàn trao đổi đa chiều và hết sức sinh động. Trước hết về mặt nội dung, Nhà thơ Hải Đường viết: Một cuốn sách rất “nóng” trong đời sống xã hội - văn chương. Khi mà cái lò lửa đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đang rừng rực cháy thì tiểu thuyết Sóng độc của nhà văn Trần Gia Thái góp vào những thanh củi gộc để tiếp sức, để giữ bền ngọn lửa ấy. Nhưng không phải là những “thanh củi” hiểu theo nghĩa thông thường …mà là sự khái quát cao về một bộ phận trong giới trí thức bị lưu manh hóa đến mức mất hết nhân tính. Hay, nói như Nhà văn Uông Triều: Đây là Câu chuyện gay cấn và hấp dẫn xung quanh cuộc đấu quyền lực giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và cải cách, giữa cơ hội và chính trực v.v..
Song, để có thể truyền tải nội dung đến với công chúng là cả một quá trình tư duy sáng tạo của tác giả về những tạo dựng bố cục, nhân vật cũng như diễn biến tính cách của nó. Mặt khác, cái đích chính của Sóng độc nhằm phản ánh và tạo ảnh hưởng đến đời sống và thời đại nó đang sống. Như vậy, nếu như tập tiểu thuyết Sóng độc đã tạo được sự thu hút của đông đảo công chúng như nói ở trên thì nó đã đạt đến độ cao của tính nghệ thuật. Để lý giải điều này, theo Nhà văn Văn Chinh thì: Sóng độc là tiểu thuyết hấp dẫn, có thể đọc một mạch. Trước hết nhờ tính logic của các tình huống, các diễn biến tâm lý, các câu thoại và phản ứng giữa các nhân vật âm mưu hãm hại nhau…Các nhân vật quan chức nói năng ý nhị, đầy lập trường, nguyên tắc. Các quan chức xấu cũng vậy, cũng ý nhị, đầy lập trường nguyên tắc khi đụng đến các âm mưu, đụng đến tiền hối lộ, mua chuộc… Nhờ tính chân thực của ngôn ngữ nhân vật, cuộc giải phẫu căn bệnh thời đại của Sóng độc đạt đến độ tinh tế, thấu đáo. Đối với Trần Gia Thái, đây không phải là lần đầu anh viết văn xuôi, song đến Sóng độc, người ta nhận ra và khẳng định có một lối rẽ bất ngờ trong chặng đường sáng tác. Đấy là một đòi hỏi của nghề nghiệp, của sự lựa chọn hay sự thích ứng của Trần Gia Thái về phương thức sáng tạo trước đòi hỏi của gánh nặng nội dung trong anh cần có đích đến. Theo Nhà văn Sương Nguyệt Minh : Tôi vẫn nghĩ: Người nghệ sỹ tràn trề nội lực và cá tính sáng tạo thường không vừa lòng, thỏa mãn với những gì mình đã có, mà luôn khao khát vươn tới những chân trời mới lạ. Mặc dù, Trần Gia Thái đã đi một chặng đường dài thơ, nhưng dường như cái phương thức trữ tình của thơ vẫn không tải hết những điều nhức nhối của biển đời, biển người với đầy rẫy bất công, nhiễu nhương, hỗn tạp, mà lòng ông thì cứ giày vò, bất an. Cần một phương thức tự sự, cần một một thể loại lớn dung chứa, vừa bao quát vừa cụ thể…để tái tạo bức tranh xã hội rộng lớn về số phận con người…
Và, nếu không xếp nối tập Sóng độc vào cùng những sáng tác trước đó của Nhà văn Trần Gia Thái để so sánh, tìm ra sự vượt trội, thì bản thân chính tập tiểu thuyết này cũng xác định chỗ đứng riêng của nó về cả nội dung và giá trị nghệ thuật. Gs, Ts.Trần Đăng Suyền khẳng định: Tiểu thuyết Sóng độc có sự dồn nén cao độ về không gian, về thời gian nghệ thuật với một thế giới nhân vật không nhiều, được lựa chọn kĩ…Ở đây, Trần Gia Thái đã tiếp cận hiện thực đời sống từ một góc nhìn riêng, đã tạo nên cái nhìn riêng về hiện thực và con người… Trong suốt 17 chương, với hơn bốn trăm trang sách, hai chữ sóng độc nhấp nháy hiện lên, cứ trở đi trở lại, như một tín hiệu thẩm mỹ, dệt nên một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Lại nữa, nói như Nhà văn Đỗ Anh Vũ thì Trần Gia Thái đã rất khéo sử dụng lợi thế của ngòi bút: “Kẻ đại diện cho cái ác cho dù không bị tiêu diệt, không bị pháp luật trừng phạt thì chính nhà văn đã trừng phạt hắn bằng ngôn ngữ của mình”. Để cuối cùng, thông điệp mà tác phẩm gửi gắm là ca ngợi những giá trị đẹp đẽ, bền vững về nhân phẩm, về lương tri con người.
Với bấy nhiêu nhận định, đánh giá về tiểu thuyết Sóng độc của Nhà văn Trần Gia Thái, chúng tôi xin được tập hợp in trong tập Kỷ yếu này, nó tạm đánh dấu cho một chặng dư luận cũng như quan điểm ban đầu về tập sách. Song, tại buổi tọa đàm hôm nay, chúng ta còn sẵn sàng cùng trao đổi rộng rãi với các văn nghệ sĩ, trí thức và bạn đọc để đón nhận những ý kiến hay hoặc cách cảm ở góc độ khác và biết đâu lại phát hiện thêm cái nhìn mới lạ hơn về tập tiểu thuyết, thậm chí kể cả là những hạn chế rất khó tránh khỏi. Nếu được vậy, chúng ta sẽ bổ sung thêm các ý kiến trao đổi để hoàn tất tập Kỷ yếu riêng về tập Sóng độc cũng như qua đó làm gia tăng bề dày của công tác lý luận phê bình của Hội Nhà văn Hà Nội.
Phía trước, chúng tôi tin ở nhà văn Trần Gia Thái với thành công lớn hơn dẫu tới đây là tác phẩm văn xuôi hay là thơ, bởi qua Tiểu thuyết Sóng độc - ngoài đánh giá của các nhà văn, nhà phê bình đã nêu trên - chúng tôi còn thấy Nhà văn Trần Gia Thái đang nguyên một nội lực khát vọng về cuộc sống và tình yêu./.
BVM 10/3/2023.
Tự sự về “Sóng độc”
Gs, Ts, Nhà phê bình văn học Trần Đăng Suyền
Như mọi người đều biết, mỗi thể loại văn học đều có một cách tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát riêng đối với đời sống, đồng thời cũng có một nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật riêng. Nhà văn, dẫu tài năng đến tầm cỡ nào, cũng chỉ sở trường về một thể loại. Mỗi nhà văn thường chỉ viết hay được một thể loại; nếu ông ta viết được nhiều thể loại thì cũng chỉ thực sự thành công ở một thể loại nào đó mà thôi. Và nếu như có nhà văn nào đó viết hay được một vài thể loại, thì cũng vẫn có một thể loại nổi trội lên, gắn liền với tên tuổi của ông ta.
Thông thường, cá tính sáng tạo, điệu tâm hồn của mỗi nhà văn thường phù hợp với một kiểu tư duy nghệ thuật nào đó. Vì thế, con đường sáng tạo của mỗi nhà văn cũng là con đường tự khám phá, phát hiện ra kiểu tư duy nghệ thuật đích thực của mình về khuynh hướng nghệ thuật, về thể loại sở trường của mình. Văn học thế giới cũng thế, văn học Việt Nam cũng vậy thôi. Ta hiểu vì sao, Balzac có một thời là một người viết bi kịch tồi, trước khi trở thành nhà tiểu thuyết hiện thực vĩ đại. Gogol, lúc đầu cầm bút cũng làm thơ, năm 20 tuổi đã đốt bỏ tác phẩm đầu tay là một bản trường ca, sau đó mới tìm ra sở trường của mình là truyện ngắn và tiểu thuyết. Nguyễn Tuân, trước khi trở thành cây bút tùy bút đầy tài năng, đã từng là người viết truyện ngắn trào phúng xoàng xĩnh. Tô Hoài và Nam Cao, khi chập chững bước vào nghề văn, cũng làm những bài thơ tình nhạt nhẽo... Những tác phẩm không phù hợp với kiểu tư duy nghệ thuật, không phải là thể loại sở trường của những tác giả nói trên, nhanh chóng bị quên lãng, chỉ còn lại như một chứng tích của “một thời lầm lạc”. Trong số những nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng từ trước năm 1945, có lẽ chỉ có Nguyên Hồng là viết hay được cả văn và thơ. Thơ Nguyên Hồng khá hay. Theo Chế Lan Viên, Nguyên Hồng “có cái nhìn phức tạp”, đem được cả cái hoang dại vào trong thơ. Có được cái hay đó, một phần là do thơ phù hợp với cái tạng riêng của con người Nguyên Hồng, một kiểu con người – trái tim tràn đầy cảm xúc. Nhưng có phải vậy không, khi nói đến Nguyên Hồng, người ta chủ yếu nói đến ông với tư cách nhà văn viết tiểu thuyết và truyện ngắn.
*
Lan man một chút để trở về với Trần Gia Thái, tác giả của tiểu thuyết Sóng độc. Theo nhà văn Sương Nguyệt Minh, “có nhiều bạn đọc biết đến Trần Gia Thái trước hết là một nhà văn”, tác giả của tập truyện thiếu nhi Thành phố đáy hồ (1981) và tập truyện vừa Hắn là tôi (1997), được nhà văn Tô Hoài khen “đọc thấy thích vì viết lạ”. Sương Nguyệt Minh nhận xét: “Một gia tài văn nho nhỏ, xinh xắn, nhưng phải nói công bằng: một chút văn xuôi mỏng mảnh đầu đời chưa làm nên diện mạo nhà văn và cá tính sáng tạo của Trần Gia Thái”[1].
Cũng theo Sương Nguyệt Minh, bẵng đi 15 năm, “Trần Gia Thái im hơi lặng tiếng văn chương, vì mưu sinh cơm áo gạo tiền, vì dồn tâm dành sức cho nghề báo chí (…) thì, đánh đùng một cái, ông… làm thơ, làm thơ tưng bừng. Ông quay trở lại với văn chương bằng thơ, một ngả rẽ bất ngờ” (1, tr. 8). Chỉ 9 năm, “Trần Gia Thái in thơ với nhịp độ thời gian một năm rưỡi một tập, dồn dập các thi phẩm: Lời nguyện cầu trước lửa, Mưa không mùa, Ký ức khát, Trăng ướt, Biển giờ không còn mặn… ra đời khiến bạn văn thơ ngỡ ngàng (…). Các nhà thơ Vũ Quần Phương, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Ninh Hồ đã nhận ra thơ là “căn cước nghệ thuật của Trần Gia Thái” (1, tr. 9). Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã nói rất đúng, rất hay về sự tìm đến thể loại tự sự cỡ lớn là tiểu thuyết của Trần Gia Thái khi viết Sóng độc. Sương Nguyệt Minh cho rằng: “Đến tiểu thuyết Sóng độc, thì xem ra những tiên đoán nghệ thuật của các nhà thơ Vũ Quần Phương, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Ninh Hồ rằng “căn cước nghệ thuật” của Trần Gia Thái là ở thơ… có vẻ lung lay ? Tôi đồ rằng: Tiểu thuyết mới là đường chính, đường lớn của Trần Gia Thái, văn phẩm Sóng độc nâng vị thế văn chương Trần Gia Thái lên tầm cao mới, bỏ xa các truyện ngắn truyện vừa thuở đầu đời văn ở lại tít phía sau ? Hoặc cũng có thể tiểu thuyết “song bích hợp kiếm” cùng với thơ làm nên một tên tuổi Trần Gia Thái vững chắc ?” (1, tr. 15).
Như vậy, có thể thấy, hành trình sáng tác của Trần Gia Thái là từ truyện ngắn, truyện vừa, rẽ sang thơ, và đến giờ lại quay về với thể loại văn xuôi, lựa chọn thể loại tiểu thuyết để tái tạo bức tranh đời sống phức tạp và khắc họa sâu sắc số phận con người. Trần Gia Thái lựa chọn thể loại tiểu thuyết – tự truyện để viết Sóng độc. Những ai gần gũi với Trần Gia Thái ngoài đời đều có thể nhận ra tiểu thuyết Sóng độc ít nhiều có tính chất tự truyện. Không ít những nhà văn Việt Nam đã ghi tên tuổi của mình, một phần là nhờ những cuốn tiểu thuyết có tính chất tự truyện như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Vũ Bằng, Nam Cao, Lê Lựu,… Cái riêng của tiểu thuyết Sóng độc của Trần Gia Thái là ông viết về những buồn vui, những cay đắng mà chính ông đã trải nghiệm và chiêm nghiệm, viết về những con người thân thiết, những con người sống quanh ông, hàng ngày va đập đến ông, về miền quê nghèo mà biết bao tình nghĩa của ông. Đó chính là một trong những nét riêng tiểu thuyết – tự truyện Sóng độc của Trần Gia Thái.
Có một nét bền vững trong sáng tác của Trần Gia Thái, từ thơ ca đến tiểu thuyết. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét về những tập thơ gần đây của Trần Gia Thái: “Đằm thắm, thương cảm là vế đối với cay đắng và trải nghiệm. Thơ trực diện đi vào những vấn đề của ngày hôm nay. Cái tình vẫn đậm sâu nhưng cái trí cái dũng trở nên mạnh mẽ, sắc sảo hơn. Cuộc đời nó táp vào mình như thế, phải thét lên, vùng lên, đứng dậy nhận diện cái ác, cái xấu là rất cần thiết vào lúc này” (1, tr. 9). Với tiểu thuyết Sóng độc, Trần Gia Thái đã nhận diện, đào sâu khai thác, phơi bày “cái ác, cái xấu” của cuộc sống hôm nay, tập trung, xoáy sâu vào hiện tượng sóng độc, một trong những vấn nạn rất đặc trưng cho ngành phát thanh truyền hình và lĩnh vực báo chí nói chung, nói rộng ra cũng là một tệ nạn, một vấn nạn của thời đại chúng ta.
Câu chuyện “Sóng độc” xoay quanh sự kiện lựa chọn cán bộ chủ chốt ở đài phát thanh truyền hình Bắc Hà, tỉnh Nam Bình. Ấy là khi Giám đốc đài Văn Đức sắp nghỉ hưu, lãnh đạo tỉnh cân nhắc lựa chọn người thay thế là một trong hai Phó Giám đốc: Trần Thụy và Đỗ Thiết, đồng thời cũng cân nhắc thêm phương án mạnh dạn đề bạt Quang Thiện, Trưởng ban thư kí biên tập, có năng lực và được nhiều cán bộ, viên chức của đài tín nhiệm. Trong tình huống ấy, Đỗ Thiết vì có tham vọng lên Giám đốc, đã tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để ngăn chặn người cán bộ trẻ tuổi, có năng lực và giàu tâm huyết là Quang Thiện. Nhà văn Trần Gia Thái đã biến một câu chuyện về công tác tổ chức cán bộ ở một đài địa phương thành câu chuyện về sự cạnh tranh quyền lực, về thế thái nhân tình không chỉ ở cơ quan báo chí mà còn có ý nghĩa điển hình ở các cơ quan công chức nói chung.
Viết về cái mặt trái, cái tiêu cực trong xã hội đương thời, Trần Gia Thái không viết về nạn tham nhũng đang được coi là một thứ “giặc nội xâm”. Ông tập trung viết về một tệ nạn xã hội ngày càng phổ biến, ấy là cái tệ nạn tung tin giả, bôi xấu những người tử tế, mỗi khi họ chuẩn bị được cất nhắc, đề bạt hay khen thưởng. Viết về những âm mưu, thủ đoạn, hành động nham hiểm, tàn độc của những kẻ xấu xa nhưng lại mang danh nghĩa là bảo vệ chế độ, tổ chức, cơ quan, đã làm hại biết bao người có năng lực, tử tế, lương thiện. Viết về cuộc chiến đòi lại công lí cho những người chân chính bị hại, một “cuộc chiến trong nội bộ”, “đầy cam go, cân não, tổn hao tinh thần, trí tuệ” (tr. 417). Với vốn sống phong phú và sự từng trải của một người làm phát thanh truyền hình kì cựu, một nhà báo đầy từng trải, lọc lõi, Trần Gia Thái đã khai thác một đề tài độc đáo, gắn bó sâu sắc với môi trường sống, với nghề nghiệp, với cuộc đời, là máu thịt của cuộc đời ông. Nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam cho rằng: “Sóng độc là một tiểu thuyết của người phát thanh truyền hình về nghề phát thanh truyền hình, và nó thực sự là một thứ của hiếm, vì từ trước đến nay hình như chưa người phát thanh hay truyền hình nào ở Việt Nam viết tiểu thuyết về nghề mình”[2].
Tiểu thuyết Sóng độc có sự dồn nén cao độ về không gian, về thời gian nghệ thuật với một thế giới nhân vật không nhiều, được lựa chọn kĩ. Sóng độc tập trung tái hiện cái không gian, cái bối cảnh của một “ngành nghề thật” trong những năm bao cấp vắt sang thời kì đổi mới ở một đài truyền hình địa phương – đài truyền hình Bắc Hà, tỉnh Nam Bình. Không gian tiếp theo được mở ra, ấy là cái vùng quê nghèo – quê hương của Phạm Quang Thiện, với hình ảnh người mẹ, nhất là người cha thân yêu của anh. Thấp thoáng ẩn hiện là hình ảnh Phạm Phúc Thành, người anh trai của Thiện đã hi sinh trên chiến trường những năm chống Mỹ.
Viết tiểu thuyết Sóng độc, Trần Gia Thái đã tiếp cận hiện thực đời sống từ một góc nhìn riêng, đã tạo nên cái nhìn riêng về hiện thực và con người. Đã tiếp cận, phơi bày cái xấu, cái ác trong môi trường, ngành nghề phát thanh truyền hình: bằng thủ đoạn tạo nên những tin đồn, tung tin thất thiệt, tạo nên những “sóng độc” để vu khống, kiện cáo, hãm hại những con người chân chính. Đây không phải là sóng ngầm, sóng lừng như các cơ quan quản lí nhà nước khác. Đây là loại sóng đặc thù ở những cơ quan báo chí, văn hóa, văn nghệ “vừa nổi vừa ngầm vừa trào vừa lừng. Chưa kịp suy xét kĩ đã ào lên phản biện, phản ứng. Không có cớ để bật lại thì rỉ tai truyền tin, thoắt cái đã phủ sóng. Sóng dư luận. Kiểu đó được gọi là sóng độc. Ai mà chạy theo dư luận, theo cái sóng độc ấy được” (tr. 46). Có thể nói, với Sóng độc, Trần Gia Thái đã phát hiện và phơi bày một sự thực xấu xa đã trở thành một tệ nạn phổ biến trong thời đại của chúng ta: “Đã nhiều năm nay, trên khắp nước ta, ở bất cứ ngành nào, cấp nào, địa phương nào cũng xuất hiện một loại hình tệ nạn mới, tệ nạn kiện cáo khi có ai đó sắp được cất nhắc, đề bạt. Loại tệ nạn này đã gây không ít phiền hà cho các cấp, các nhà lãnh đạo, các tổ chức đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Và đã không ít những nạn nhân trúng đòn ác hiểm của chính những bạn bè, đồng chí, đồng đội đã từng kề vai sát cánh cưu mang nhau thuở hàn vi!” (tr. 367).
Qua ngòi bút của nhà tiểu thuyết, những lớp “sóng độc” được phát sóng, liên tiếp được tung ra, được hiện hình bằng những con người cụ thể, từ Hoàn toác, Bạc phò, Mùi già, Đạt láu, Lê Sở Kha đến trùm cuối là Đỗ Thiết. Khắc họa những nhân vật là điển hình cho cái xấu, cái ác, Trần Gia Thái đã miêu tả, chủ yếu là kể lại, những âm mưu, thủ đoạn và hành động của chúng từ nhiều phía, vừa trực tiếp, vừa qua sự đánh giá của những người khác. Nổi bật lên trong hệ thống các nhân vật đó là Đỗ Thiết, Phó Giám đốc đài truyền hình Bắc Hà, là kẻ viết “kịch bản” đồng thời cũng là “đạo diễn” cho những lớp “sóng độc”, một kẻ tàn độc, xảo quyệt, đầy thủ đoạn, chuyên ném đá dấu tay. Nhà tiểu thuyết đã phơi bày bản chất tàn nhẫn, dối trá, nhỏ nhen, thủ đoạn thâm hiểm của Đỗ Thiết từ nhiều chiều, nhiều phía. Sự nham hiểm, xảo trá của Đỗ Thiết từng lúc, từng sự việc cụ thể, được phơi trần: qua buổi giao ban tháng, trong những cuộc họp, qua những lần tụ tập bàn mưu tính kế với đồng bọn, và qua những lời nhận xét của những nhân vật khác. Theo lời của Hoàn toác nói với Đạt láu thì Đỗ Thiết “là chuyên gia ủ mưu, lắm mặt, thủ đoạn khôn lường” (tr. 76). Theo lời Trần Thụy thì “Đỗ Thiết là con người khó lường, hắn không từ một thủ đoạn nào” (tr. 233). Qua lời tâm sự của Văn Đức với Quang Thiện thì Đỗ Thiết là kẻ cơ hội, làm gì cũng chỉ vì mình: “Anh ta nói vì chúng ta, vì tập thể, nhưng ai cũng biết, động cơ, ý đồ, hướng mục đích bao giờ cũng qui tụ vào chữ mình, chữ tôi” (tr. 106). Trong một cuộc đối đáp, Hoàn toác đã nói thẳng với Đỗ Thiết: “Anh là trùm đa nghi”; “Anh là bố Tào Tháo, anh tưởng bọn tôi ngu lắm sao. Nghe tin đứa này, xong lại kiểm tra qua đứa kia, đem tin của hai đứa hỏi lại đứa thứ ba, rồi lại tung đòn gió thử lại. Thế không là đa nghi thì là cái gì?” (tr. 192). Trần Thụy dặn Quang Thiện “phải hết sức cẩn thận”, “phải tuyệt đối đề phòng, cảnh giác cao độ” với Đỗ Thiết vì hắn “từng là công an trại giam, có người bảo trong đội thi hành án”, “cũng vào loại không biết run tay” (tr. 214). Bạc phò có lần nói thẳng với Đỗ Thiết: “Có gan làm những chuyện chết người, xem ra chỉ có bác” (tr. 269). Theo nhận xét của anh em ở Đài thì Đỗ Thiết “là tổ sư của thuyết âm mưu” (tr. 373).
Nhiều khi, tác giả để cho Đỗ Thiết tự phơi bày những mưu mô, thủ đoạn hại người của hắn. Ấy là khi Đỗ Thiết nói với Bạc phò và Mùi già: “Kế hoạch là có 5 tờ báo lần lượt tiếp nhau đăng tin vụ này. Báo này nhắc lại của báo kia, mỗi báo ta thêm cho tí tình tiết mới và nhấn mạnh phần chất vấn, đòi hỏi của dư luận. Dồn dập báo chí tấn công là các lão Thường trực tỉnh Nam Bình sẽ run tay. Bọn họ sẽ dừng đề bạt thằng Thiện là mình thành công” (tr. 317). Ấy là khi Đỗ Thiết mời Thiện lên phòng, chẳng cần rào đón trước sau gì, Đỗ Thiết nói toạc móng heo luôn: “Không giấu gì cậu, Chủ tịch tỉnh có gợi ý đưa tôi lên Quyền Giám đốc Đài (…). Cậu ủng hộ phương án tôi Quyền Giám đốc đi. Tôi cũng đã hứa với Chủ tịch là sẽ bồi dưỡng chăm lo cho cậu (…). Sau đó xảy ra việc luân chuyển đột ngột. Trung ương đưa Hùng Dũng về. Tôi đã phải cắn răng chịu đựng, nhẫn nhịn chờ. Nay đại hội đã xong, Hùng Dũng vẫn chưa đi (…). Dũng bị kẹt ở Đài, việc tôi cũng hỏng. Tôi hỏng ăn thì cậu cũng sểnh miếng (…). Để tôi nói cậu nghe, chỉ còn một cách giải bài toán này là Hùng Dũng phải ra đi ngay. Ta sẽ đánh pan, gây sự cố. Hùng Dũng bị tai tiếng. Bí thư sợ mất điểm với Trung ương (…). Để an toàn, Bí thư phải rút Hùng Dũng lên tỉnh, chỗ nào cũng được, miễn là không để ở Đài nữa”. Khi Thiện đáp lại: “Anh Hùng Dũng đang chỉ đạo tốt, công việc đang chạy” thì Đỗ Thiết yêu cầu Thiện: “Chỉ cần khi có sự cố, không phải việc mình, cậu nhắm mắt làm ngơ, đừng có ý kiến ý cò, chai lọ này nọ là được (…). Tôi và cậu mà bắt tay nhau quay lưng, đảm bảo chỉ hai tháng là Hùng Dũng phơi áo ra đi…” (tr. 212 – 213). Nghe Đỗ Thiết trắng trợn tự phơi bầy âm mưu của mình, “Thiện choáng luôn. Choáng vì Thiện không thể hiểu rằng sao Thiết lại có thể nghĩ ra những nước cờ quái đản như vậy. Lòng người đúng là khó lường. Vì tư lợi họ sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, kể cả chuyện vô đạo đức và vi phạm pháp luật” (tr. 212). Là kẻ say máu hãm hại người lương thiện, Đỗ Thiết bao giờ cũng đi đến tận cùng, không bao giờ buông bỏ đối thủ. Hắn nói với lũ đàn em: “Cô chú quên rồi à ? mấy tháng nữa tao về, ghế Giám đốc Đài này ai ngồi ? Không nó vào đây thì còn ai ? Phải chặn, phải chặn ngay từ bây giờ. Phải phát sóng độc ngay từ bây giờ, tiếp tục chiến đấu, hiểu chưa ?” (tr. 429). Bằng cách khắc họa nhân vật từ nhiều phía, có cả một quá trình, chân dung nhân vật Đỗ Thiết hiện ra một cách rõ nét, đầy đặn. Đỗ Thiết hiện là một điển hình cho cái xấu, cái ác của xã hội ta, là kẻ chủ mưu, thiết kế, chỉ đạo tạo tin giả vu cáo, tung “sóng độc”. Đỗ Thiết là kẻ nham hiểm, xảo quyệt, đầy thủ đoạn, chuyên ném đá dấu tay, tàn độc. Tàn độc đến mức mất cả nhân tính khi ra đòn ngay cả lúc đối thủ phải đi cấp cứu vì chảy máu dạ dày, thậm chí vào đúng lúc đối thủ lâm vào cảnh tang gia bối rối. Đỗ Thiết là con người này, có cá tính riêng nhưng cũng mang những nét tính cách tiêu biểu cho một hạng người, một loại người, đây đó ta vẫn thường bắt gặp ở bất cứ cơ quan, đơn vị nào trong thời đại của chúng ta.
Châu tuần xung quanh Đỗ Thiết là những đàn em của hắn: Hoàn toác, Bạc phò, Mùi già, Phòng bếp, Đạt láu,… Do hiểu sâu sắc bản chất của từng nhân vật, chỉ bằng vài nét vẽ, Trần Gia Thái đã tạo nên được chân dung của những kẻ xấu. Hoàn toác là một kẻ cơ hội, trí trá, lật lọng, một tay “đâm bị thóc chọc bị gạo có hạng” (tr. 41). Hắn là kẻ “ba hoa, chém gió, chưa đặt đít đã cất lời, thuộc loại ăn như rồng cuốn nói như rồng leo. Những câu chuyện trên trời, dưới đất, những tin tức lượm lặt gần xa được phát ra từ cái loa của Hoàn, chẳng ai biết được thực hư, đúng sai” (tr. 18). Khác với Hoàn toác, Bạc phò là kẻ không bia rượu, nhập nhóm của Đỗ Thiết là do “thèm chức và máu đấu đá” (tr. 18), một tên gian manh, phản bạn, lấy “oán báo ân”. Hắn là “chuyên gia phao tin” (tr. 408), “nấp dưới cái giọng nằng nặng, khê khê, quê quê, cũ cũ, lại hay ví von ca dao thành ngữ, làm người ta liên tưởng tới một gã nông dân cục mịch, nên tin ngay những câu chuyện của Bạc phò là thật” (tr. 18). Hễ thủ trưởng cơ quan quê ở đâu thì Bạc phò bảo quê hắn ở đó. Bố hắn là nông dân nhưng hồi mới về đài, Bạc phò “vỗ ngực khoe bố hắn là Tướng Tuấn Kim, Sư trưởng sư 32 bị lính Thốt Nốt bắn ở chiến trường K (…). Bốc phét đến thế thì Cuội cũng phải tôn Bạc là sư phụ” (tr. 19). Không kém cạnh Bạc phò là Đạt láu, một kẻ “viết báo tốt mà kiếm tiền cũng giỏi”, đầy thực dụng. Ngoài những người có chức sắc, Đạt láu “còn làm thân chơi với những dạng đầu gấu có số má”. Bề ngoài có vẻ vồ vập thân thiết nhưng thực chất Đạt láu chẳng thân thiết, gan ruột với ai cả. “Đạt chỉ yêu mình. Có lợi là chơi”. Đạt không bao giờ “bỏ tiền ra mà không nhìn thấy có lợi có lãi. Đạt chỉ hào sảng lời nói và vung tay đốt tiền của người khác. Kiểu tay người đấm phản. Trong công việc cũng vậy, bình thường thì chén chú chén anh, chứ động dạng nước tràn, thuyền thủng là Đạt rảo cẳng nhảy tót lên bờ trước” (tr. 19). Còn Mùi già, một cô thanh niên xung phong chuyển ngành về đài, có khuôn mặt rất đặc trưng: “Cũng là trái xoan, nhưng trán ngắn, cằm ngắn, gò má lại rộng đường ngang, thành ra mặt Mùi là khuôn mặt trái xoan nằm ngang, chứ không phải dựng dọc” (tr. 21). Mùi già có cái vẻ “liến thoắng, miệng nói, mắt nói, trợn trừng tráo trưng”, có “giọng nói oang oang như lệnh vỡ”, “nói cười phớ lớ chẳng khác đàn ông”. Một cô gái có cửa sổ tâm hồn “toàn lòng trắng, lúc nào cũng đảo như rang lạc”, “cãi nhau mồm năm miệng mười đố ai đấu kịp”. Mùi già chỉ kém môn viết báo, “còn cái gì cũng giỏi, nhất là dựng chuyện”. Là kẻ ngồi lê đôi mách, Mùi già như một cái loa truyền thanh, chuyên phát tán “sóng độc” cho kẻ xấu. “Thời buổi tin đồn hấp dẫn hơn tin báo, tin rỉ tai cuốn hút hơn tin loa đài, người ta bàn tán thị phi về ai đó, nếu bình thường hàng năm trời chưa chắc đã lan tỏa hết cơ quan, nhưng tin đó qua Mùi già, nó như diều gặp gió, rồng thêm cánh, sông khơi dòng, suối mở nguồn, nhanh hơn cả dịch bệnh” (tr. 20). Ngoài đám đàn em chân tay của Đỗ Thiết, ngòi bút của nhà tiểu thuyết còn khắc họa chân dung của Lê Sở Kha, phụ trách thanh tra Bộ, chung qui cũng chỉ vì tiền, đầy thâm hiểm, ném đã giấu tay, vẽ đường, tiếp sức cho những kẻ xấu, hãm hại người lương thiện. “Lão này cáo lắm” (tr. 405), khi mưu xấu bị phát hiện, bị thanh tra lại, Kha vẫn nói với Bạc phò: “Lê Sở Kha này chưa hết võ đâu, cần thiết lôi đòn tủ gia truyền, một phát chết sặc gạch, cho cả lũ chào cờ!”. Hắn tiếp tục bày trò, tung đơn mới, tố cáo Quang Thiện “chưa học xong lớp 10, chưa có bằng tốt nghiệp cấp III phổ thông” (tr. 421).
Cùng với một hệ thống nhân vật đại diện cho cái xấu, cái ác như thế, Trần Gia Thái đã khá thành công khi tạo nên một biểu tượng nghệ thuật: sóng độc. Trong suốt 17 chương của cuốn tiểu thuyết, với hơn bốn trăm trang sách, hai chữ sóng độc nhấp nháy hiện lên, cứ trở đi trở lại, như một tín hiệu thẩm mĩ, dệt nên một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Những kẻ tạo/tung sóng độc chuyên giở trò cài bẫy, chơi ác, “khiến cho cái ác cái xấu bung tỏa như sóng độc” (tr. 60). Đó là cái thủ đoạn tung tin xấu, xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ danh dự một con người, là cái tệ nạn kiện cáo khi có ai đó sắp được cất nhắc, đề bạt. Trong tiểu thuyết Sóng độc, ngòi bút Trần Gia Thái chỉ tập trung vào một trường hợp cụ thể, có tính chất điển hình: làm hiện hiện lên trong những trang tiểu thuyết cái tệ nạn mới này qua việc bọn xấu tìm mọi cách hãm hại Phạm Quang Thiện. “Anh em nhà đài đều nói trung tâm phát sóng độc là Ban Biên tập báo Lá Mơ của anh Đỗ Thiết” (tr. 306). Bọn chúng tìm mọi cách nói xấu, vu cáo người tốt, “gây rối cơ quan, phá hoại tổ chức” (tr. 363). Cái đích mà những sóng độc ấy hướng đến, đều tập trung vào Quang Thiện, “Những thị phi tệ hại, dân nhà đài ví với sóng độc ấy ngày một dày. Dày cả về tần xuất phát sóng, cả về lượng thông tin…” (tr. 104). Mùi già nói với nhân viên kĩ thuật phát sóng: “Lúc nào chả có tin mới. Sóng độc luôn” (tr. 62). Mùi già tung tin Quang Thiện lên Giám đốc đài; ông Thiết và ông Thụy “vồ ếch rồi”. “Thế là mọi thông tin về Quang Thiện được Mùi già tuôn ra ào ào. Có điều nó không phải là những thông tin thuận, thông tin tốt ủng hộ mà là những thông tin đầy độc địa. Họ bảo Quang Thiện tuổi nào, tuổi nào mà dám ra tranh giành với đàn anh” (tr. 63). Bọn chúng tung tin Quang Thiện đi Lào làm phim, về biếu quà cấp trên, để cho mọi người hiểu lầm, “chạy chọt, đút lót, đã trở thành thuộc tính của Thiện…” (tr. 64). Do nhiễm sóng độc, “Đài Bắc Hà những ngày này không khác gì một cái chợ” (tr. 64). Hết tin đồn “sóng độc” lại đến “sóng nhiễu” (tr. 73), rồi lại “thuyết âm mưu” (tr. 232). Hãy nghe bọn chúng giảng giải cho nhau về “kĩ nghệ viết đơn thư, phao tin, đồn thổi , phát sóng độc. Thông tin phải có thật có giả, thực thực, hư hư lẫn lộn gây hỏa mù. Thằng Thiện được lòng quần chúng thì phải cho quần chúng bất ngờ, ngả ngửa ra là mình tin nhầm. Dùng chính quần chúng và đòn dân vận chơi lại nó. Từ đó họ mới sụp đổ thần tượng” (tr. 313). Nhà báo Nguyễn An, một nhà báo có nhiều thành tích chống tiêu cực, tỉnh táo nhận ra “đây là cuộc chiến trong nội bộ. Nhà báo đánh nhau với nhà báo. Đồng nghiệp hạ bệ đồng nghiệp. Đồng chí tiêu diệt đồng chí. Các cơ quan truyền thông rạch đôi chiến tuyến. Một trận tuyến được truyền thông tung hỏa mù, gây nhiễu, phát sóng độc, mà kẻ vu cáo lại nhân danh người chân chính đấu tranh cho lẽ phải, thay mặt “Tập thể” làm việc vì đại nghĩa, bảo vệ tổ chức, cơ quan, khỏi nguy cơ do những phần tử cơ hội xâm hại. Một bên, người tử tế thật, bỗng dưng bị vấy bẩn, bị bôi nhọ thành kẻ xấu xa, tồi tệ đáng phải lên án…” (tr. 417).
Với những sóng độc mà bọn Đỗ Thiết dùng mọi thủ đoạn liên tiếp tung ra, Quang Thiện muốn sống bình yên, lương thiện nhưng không sao yên ổn được. Quang Thiện cay đắng nếm đủ các ngón đòn của bọn xấu, “5 năm bị giam trong nhà tù dư luận!”. “Ai tin tấm bằng có máu? ”. Vậy mà, “Kẻ tố cáo vẫn nham nhở cười!” (tr. 430). Những luồng sóng độc mà bọn xấu, bọn ác tung ra làm hại biết bao người. Đứa cháu gái của Thiện tâm hồn ngây thơ trong sáng thực sự bị tổn thương khi vô tình nghe phải những “sóng độc” của bọn Đỗ Thiết. Người cha của Thiện nghe đài nói sẽ kỉ luật và cho Thiện thôi việc, đã “bị sốc, mà chết bất đắc kì tử” (tr. 389). Quang Thiện đã không kịp gặp bố. “Sự việc xảy ra đột ngột. Cảm giác của Thiện như bị một cú đánh bất ngờ, choáng váng. Bà con trong họ ngoài làng kéo đến chật nhà. Ai cũng thương xót ông. Hôm qua họ còn đến mừng ông Khiêm được xuất viện, khỏe lại. Người làng thì thào truyền tai nhau. Người ta bảo ông Khiêm chết oan vì bài báo” (tr. 389). Qua ngòi bút của nhà tiểu thuyết, hiện tượng sóng độc hiện ra như một đường dây có tổ chức, liên kết chặt chẽ. “Họ in báo rồi đài Trung ương lấy báo về điểm, Đài tỉnh ta tiếp sóng của Đài Trung ương, Đài huyện lại tiếp sóng Đài tỉnh, Đài xã ta lại tiếp sóng Đài huyện, thế là cả một dây liên thông”, “phát tán cái sai, tiếp tay cho cái sai” (tr. 389). Té ra, ngay trong môi trường của những người có tri thức, văn hóa, có hiểu biết lại chính là môi trường tồn tại, phát triển của cái xấu, cái ác, dai dẳng và tàn độc hơn nhiều nơi khác. Từ trong Sóng độc vang lên tiếng kêu ai oán của bà Khiêm, vừa đau đớn vừa có ý nghĩa lên án sâu sắc: “Bà con làng nước ơi sao nhà tôi khổ thế này. Ới các ông báo chí, đài đóm ơi, các ông có ăn có học lắm chữ lắm nghĩa mà sao các ông ác thế hở giời…” (tr. 390)] Qua Sóng độc, Trần Gia Thái đã phơi bày một sự thật đau lòng đến nhức nhối: Quê hương mình, đất nước mình, trong thời đại này, cái xấu, cái ác vẫn ngang nhiên tồn tại, những “sóng độc”, những vu khống, hãm hại những người lương thiện, chân chính vẫn mặc sức tung hoành.
*
Nhà tiểu thuyết Trần Gia Thái đã phân tích làm rõ nguyên nhân, vì sao cái xấu, cái ác, những “sóng độc” lại nảy sinh, và cứ tồn tại dai dẳng trong xã hội của chúng ta. Ấy là vì, “nghề nghiệp báo chí mà xã hội ưu ái đã tạo ra cho một số người tính tự cao, tự phụ, tự do quá đà, thiếu tôn trọng, không còn giữ được những phép ứng xử văn hóa viên chức công sở” (tr. 45 - 46). Ấy là vì cái dục vọng thấp hèn, thói ghen ghét đố kị ở một số người được cái môi trường xã hội chưa thật sự thượng tôn pháp luật nuôi dưỡng. Thật đáng buồn, ai cũng biết bản chất con người Đỗ Thiết: “Con người cơ hội, thực dụng ấy, trên biết, dưới biết, nhưng có ai dám nói thẳng ra đâu. Ngại va chạm. Tâm lí giữ mình, không dây với các loại Chí Phèo. Hi vọng nó sẽ chừa mình ra. Vô tình sự né tránh của chúng ta lại khuyến khích những mầm bệnh ấy bùng phát thành các ổ dịch” (tr. 106). Không ít người tự cho mình làm nghề “sắp người” này lại né tránh những kẻ xấu làm nghề “sắp chữ”, không bao giờ làm trọn chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong bầu không khí chung của xã hội đầy thực dụng, để cho đồng tiền lên ngôi, do không trực tiếp động chạm đến quyền lợi, để giữ được cái yên ổn bề ngoài của địa bàn mình phụ trách, để vươn tới cái ghế lãnh đạo cao hơn, họ tìm mọi lí do để đẩy trách nhiệm cho người khác, không giải quyết dứt điểm, làm cho những tệ nạn xã hội càng ngày càng phức tạp, tồi tệ hơn.
*
Đọc Sóng độc, có thể nhận ra nhân vật Phạm Quang Thiện là hình ảnh của tác giả, là hình ảnh của chính nhà văn. Qua ngòi bút Trần Gia Thái, Quang Thiện xưa nay “không phải là người ham hố chức tước” (tr. 41), có tinh thần trách nhiệm cao, “Trên phân công việc gì là nhận, đã nhận việc là làm đến nơi đến chốn. Không thích để ai nói động đến mình” (tr. 104). Là người “sống nội tâm”, “cả nghĩ và ít khi thể hiện ra ngoài”. Từ nhỏ, trong gia đình, Thiện “đã quen với nề nếp dạy dỗ phải thương yêu, phải giúp đỡ, nhường nhịn. Làm việc thiện việc tốt, không được làm việc xấu, việc ác” (tr. 400). Quang Thiện là người hướng thiện, vị tha. Mặc dù bị bọn xấu tìm mọi cách hãm hại, Thiện nói với nhà báo Nguyễn An: “ chỉ đòi công bằng, chứ em không đi trả thù. Dùng cái ác trị cái ác cũng là gây ác. Bố em tên là Khiêm, em tên là Thiện mà anh…” (tr. 349). Bị lớp lớp sóng độc nhiều khi dồn đẩy vào bước đường cùng nhưng Thiện vẫn kiên trì quan niệm không lấy cái ác đáp trả cái ác, vẫn không thôi trăn trở: “Với con vật còn phải đối xử tốt, sao với con người lại gây ác cho nhau? Nghĩ đến những đòn ác mà Đỗ Thiết và Bạc phò đánh mình, Thiện không hiểu nổi. Trần lưng ra chịu đòn, uất ức nghẹn cổ. Ban đầu giận sôi người, Thiện cũng muốn trả thù, ăn miếng trả miếng, nợ gì đòi nấy. Nhưng rồi nghĩ lại. Tên mình là Thiện kia mà. Giết đàn kiến còn bị bà nội mắng, đánh con trâu, bố còn khuyên không nên. Nghe vợ về nghỉ là điều không thể. Đó là sợ sệt, hèn nhát, thoái thác. Ai cũng thế thì cái ác sẽ mọc như nấm. Nhưng làm sao để vượt qua đòn thù, vượt qua cái ác mà sống. Sống để loại trừ cái ác mà không phải dùng đến cái ác?” (tr. 401). Qua dòng suy tư, đầy day dứt, trăn trở của mình, chân dung tinh thần của Thiện hiện lên là một con người không chút căm phẫn, hằn học với đời mà giàu lòng vị tha, đầy tinh thần trách nhiệm: Sau cuộc chiến phân định thắng thua, “dù có được minh oan thì cả Quang Thiện và Đỗ Thiết cũng gánh về những mất mát, tổn thương. Bát nước đổ đi mong gì vớt lại cho đầy. Rồi còn uy tín cơ quan, bạn bè đồng nghiệp nhìn vào. Trăm người trăm ý, miệng đời to nhỏ thị phi… Liệu có còn cách khác để hóa giải sự việc trầm trọng này, không đẩy nó đi xa hơn, trượt dài hơn trong hận thù ân oán? Có nhất thiết cứ phải vậy không? […]. Sao con người ta ăn ở, đối xử với nhau không thể khác đi? Sao cứ phải triệt hạ nhau? Như thế gọi là sống ư? Thói đố kị, sự ganh ghét khi đã đi quá lằn ranh đỏ thì nó trở nên độc ác khôn lường. Nó tàn phá ghê gớm thể xác cũng như tâm hồn. Trong muôn vàn sự ác, cái ác kinh khủng nhất là nó không cho ta được làm người tử tế, nó trắng trợn cướp đi lòng tin, niềm tin, cướp đi mục đích sống của ta. Nó khiến ta không được là ta. Và một khi sự tử tế không còn, niềm tin bị cưỡng đoạt, bị hiếp đáp thì con người sẽ dao động mất phương hướng. Đấy gọi là gì? Sự chết, sự diệt, sự tuyệt vong. Con người, tế bào của xã hội, thực thể cấu thành tổ chức nhà nước, thay vì một cơ chế cường tráng thì họ lại biến nhau thành què quặt bênh hoạn, quái thai. Thử hỏi những tế bào như thế có gắn kết dựng xây cơ thể thành rường cột của xã hội văn minh?” (tr. 322 - 323).
*
Quy luật muôn đời của văn học nghệ thuật là, nhà văn chỉ có thể viết hay về những gì mà ông ta am hiểu, những cái mà ông ta gần gũi, quen thuộc, những gì là máu thịt của cuộc đời mình. Nhưng quy luật muôn đời của văn học còn là, viết như thế nào cũng quan trọng không kém, thậm chí nhiều khi còn quan trọng hơn viết về cái gì. Thành công đến mức nào của một cuốn tiểu thuyết còn phụ thuộc vào tài năng của nhà văn được thể hiện ở năng lực nghiên cứu và phân tích xã hội và con người, trong nghệ thuật trần thuật, tạo dựng bối cảnh, khắc họa nhân vật và sử dụng ngôn từ. Ngòi bút của Trần Gia Thái thiên về kể, mạnh về kể câu chuyện của ông. Sóng độc là cuốn tiểu thuyết – tự truyện, viết về quãng đời cay đắng đầy thăng trầm, những từng trải, những chiêm nghiệm của Trần Gia Thái. Tuổi thơ cơ cực, khát vọng nhân thế, hình ảnh vùng quê thân yêu, nơi chôn nhau cắt rốn của ông, hình ảnh người anh trai liệt sĩ thấp thoáng hiện về, hình ảnh người mẹ và nhất là người cha nông dân cần cù, lam lũ, nhân hậu, thâm trầm hiện lên qua những trang viết đầy ân tình của ông. Đó là những dòng chữ chắt chiu, là dòng tình cảm của ông dành cho quê hương, cho những người ruột thịt. Ông tâm sự: “Đời tôi cay đắng đủ rồi, trải nghiệm đủ rồi. Vì vậy, tôi nghĩ: Ngay cả khi bức bối nhất, cũng cần bình tâm suy nghĩ tìm ra căn nguyên để thêm điều thiện và mong muốn điều tử tế cho con người”. Viết về hiện tượng sóng độc, sóng đen, sóng xấu, viết về những âm mưu, thủ đoạn và hành động xấu xa, tàn độc của biết bao kẻ đã gây khốn khổ, cay đắng, bất hạnh cho mình nhưng cái nhìn của Trần Gia Thái trong Sóng độc vẫn là cái nhìn điềm tĩnh, bao dung, nhân ái, “suy nghĩ tìm ra căn nguyên để yêu thêm điều thiện và mong muốn điều tử tế cho con người”. Sóng độc là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc, một bước tiến trên con đường nghệ thuật của Trần Gia Thái.
Như trên đã viết, nhà văn dẫu có tài năng lớn đến tầm cỡ nào cũng thường chỉ viết hay được một thể loại. Có nhà văn, sau khi đọc Sóng độc, đặt ra câu hỏi tiểu thuyết có phải là đường chính của hành trình nghệ thuật Trần Gia Thái? Thiết nghĩ, câu trả lời còn đang ở phía trước. Trần Gia Thái có thể tiếp tục tung ra những cuốn tiểu thuyết có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật nữa không ?
1. Sương Nguyệt Minh, “Sóng độc – ngả rẽ bất ngờ hay đường cái của Trần Gia Thái ?”, in trong: Trần Gia Thái, Sóng độc, NXB Hội Nhà văn, 2022, tr. 8.
2. Nguyễn Hoài Nam, “Sóng độc, một biên bản về lòng độc, và hơn thế”, in trong: Trần Gia Thái, Sóng độc, NXB Hội Nhà văn, 2022, tr. 434.
Bước vào thế giới của cái đẹp vĩnh hằng
Nhà thơ Hải Đường
Một cuốn sách rất “nóng” trong đời sống xã hội-văn chương vừa ra lò. Khi mà cái lò lửa đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đang rừng rực cháy thì, theo thiển ý của tôi, tiểu thuyết Sóng độc của nhà văn Trần Gia Thái góp vào những thanh củi gộc để tiếp sức, để giữ bền ngọn lửa ấy. Nhưng không phải là những “thanh củi” hiểu theo nghĩa thông thường -những kẻ tham lam, sa đọa, mất hết liêm sỉ - mà ở đây là sự khái quát cao về một bộ phận trong giới trí thức bị lưu manh hóa đến mức mất hết nhân tính. Vì vì danh lợi, chạy theo chức quyền mà bất chấp pháp luật, táng tận lương tâm, gắp lửa bỏ tay người bằng đủ mọi thủ đoạn vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Đương nhiên, cái kết cục của những “thanh củi” ấy không phải có vào lò hay không vào lò mà là hậu quả của nó gây ra, xã hội, đạo đức lên án chúng như thế nào. Và một câu hỏi lớn vang lên, làm thế nào để trong mỗi cơ quan công quyền, cơ quan báo chí và cả xã hội nói chung không còn những kẻ hoạt đầu, vì lợi lộc, chức tước mà bán mình cho quỷ, bất chấp đạo lý như thế?
17 chương, hơn 400 trang sách trong tiểu thuyết Sóng độc là một câu chuyện kể cuốn hút, dồn dập sự kiện về Đài truyền hình Bắc Hà thuộc tỉnh Nam Bình. Không gian truyện được mở rộng tới các cơ quan liên quan như Tỉnh ủy Nam Bình, Bộ Giáo dục, một vùng quê yên ả ở Đồng bằng sông Hồng, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương. Thời gian tập trung chủ yếu vào những năm 90 đến đầu những năm 2000, gắn liền với thân phận của nhà báo Quang Thiện, một nhà báo trẻ say nghề, có năng lực, bỗng nhận về mình những trận đánh úp tứ phía. Anh bị những tảng đá lở, đá lăn hòng ngăn chặn, tiêu diệt, “có sống cũng thành tật” chỉ vì tập thể và cấp trên tín nhiệm, quy hoạch vào chức Phó giám đốc Đài, trong tương lai sẽ trở thành người đứng đầu.
Báo chí là một nghề đặc thù. Công tác cán bộ trong cơ quan báo chí lại càng đặc thù. Những người giỏi nghề, thường được gọi là cây bút có thẩm quyền nếu được đưa vào những chức vụ quản lý trong cơ quan thì sẽ rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng các chương trình phát sóng, nâng cao vị thế của đài. Thế nhưng, ở đời, người tài thường lấy tài che thân, còn kẻ bất tài thì đem thân che tài. Trong khi giám đốc, tổng biên tập đài Văn Đức chỉ còn ba tháng nữa sẽ nghỉ hưu, Phó giám đốc Trần Thụy, một người dĩ hòa vi quý, đơn giản, có lần đã ký nhầm “bán cột phát sóng” vì bị...lừa, thì Phó giám đốc Đỗ Thiết quyết tranh cho bằng được cái ghế số một trong cơ quan. Toàn bộ mâu thuẫn trong công tác cán bộ cũng là mâu thuẫn trong cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đỉnh điểm bắt đầu từ đó. Đỗ Thiết, một nhà báo về đài đã lâu, có chút ít thành tựu nhưng đầy cơ hội, toan tính, đã lôi kéo quanh mình những “anh hùng hảo hán”, lập thành “Hội lá mơ”, gây bè kéo cánh để ủng hộ mình và triệt hạ Quang Thiện. Đó là những Bạc phò, Mùi già, Hoàn toác, Đạt láu... mỗi người mỗi vẻ được “đại ca” Thiết sắp xếp đúng vai, cần “chẻ” chỗ nào thì các tay dao tay thớt bổ nhào ngay.
Tuyến nhân vật thành công nhất trong Sóng độc là nhóm “phản diện” này. Từng là người làm báo lâu năm, đứng đầu một cơ quan báo chí, Trần Gia Thái đã khắc họa rất thành công các nhân vật ở phía tối luôn nấp nom, rình rập lật đổ phía sáng. Này là Đỗ Thiết mang nhiều bản mặt khác nhau, ông ta tự nhận mình là “đĩ chuyên nghiệp”. Thiết bàn với Lê Sở Kha, Phó Thanh tra Bộ giáo dục về “cách vén váy”. Còn Kha thì chẳng lạ gì chân tướng người đối diện, nói huỵch toẹt với Thiết: “Anh đúng là vụng chèo khéo chống, không phải là đĩ chuyên nghiệp mà là đĩ thành tinh, thành ngã quỷ”. Này là Bạc Phò chuyên đòn xóc hai đầu, thèm chức tước hơn thèm cơm, vong ân bội nghĩa ngay với ân nhân của mình là Quang Thiện. Này là Mùi già, “trung tâm gây rối”, chuyên đưa chuyện, đặc biệt có tài “rút lõi phong bì”, “cửa sổ tâm hồn của em toàn lòng trắng, lúc nào cũng đảo như rang lạc”. Này là Hoàn toác “ba hoa, chém gió, chưa đặt đít đã cất lời, thuộc loại ăn như rồng cuốn nói như rồng leo. Những câu chuyện trên trời, dưới đất, những tin tức lượm lặt gần xa được phát ra từ cái loa của Hoàn, chẳng ai biết được thực hư, đúng sai”, v.v..
Đọc những nhân vật này tôi như thấy họ đứng ngồi đâu đó ngay bên cạnh mình, chỗ nào cũng có, cơ quan nào cũng thấy. Tự lúc nào họ góp vào “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, công chức ta. Nói hẹp hơn là ở không ít cơ quan báo chí, chẳng mấy khó khăn khi dẫn ra những nhân vật quái gở như thế. Trong Sóng độc họ dính vào nhau trong cánh tay nối dài của Đỗ Thiết, thậm chí nó còn nối sang một số cơ quan báo chí khác khi họ cần đăng những bài xuyên tạc tình hình ở Đài Bắc Hà và cá nhân Quang Thiện. Trong những bê bối của Đài Bắc Hà nhóm người này chính là những tác nhân ghê gớm. Bê bối trước hết là công tác cán bộ, rồi đến việc đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị, đề án số hóa; xây dựng trụ sở; tình trạng chạy dự án, đấu thầu, quân xanh, quân đỏ... Tất cả những điều đó tạo nên một làn sóng - sóng nhân sự, sóng thị phi, sóng hụt hơi tài chính... Đó là sóng độc. Nó ngược chiều với sóng trong, sóng lành, tin đồn hấp dẫn hơn tin báo, tin rỉ tai cuốn hút hơn tin loa đài. Nó ngược chiều với làn sóng của đài Bắc Hà đang trong quá trình vặn mình vượt thoát khỏi trì trệ, lạc hậu, bắt kịp xu thế đổi mới báo chí của cả nước.
Viết về cái xấu, cái ác như thế kể cũng là dũng cảm, sự dũng cảm trong tư thế một nhà văn có sứ mệnh cao cả với nhân dân, với xã hội. Nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki từng nói: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau, hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng, không có không khí thật sự dân chủ, đẩy mạnh chống tham nhũng, tiêu cực như hiện nay thì những trang viết mang “tiếng thét khổ đau” cũng khó được chấp nhận. Bởi trong một cơ quan báo chí như đài Bắc Hà được coi là địa chỉ văn hóa sao lại có nhiều chuyện phản văn hóa và dưới văn hóa đến thế? Lâu nay chúng ta thường nói đến văn hóa, phản văn hóa, hay phi văn hóa. Còn chuyện dưới văn hóa thì hầu như chưa được đề cập. Cái sự “dưới” này là thứ nhá nhem, được mang ra ứng xử trong cơ quan, khiến cho không khí trong tập thể u u minh minh, nhờ nhờ nhàn nhạt, người ngay sợ kẻ gian, anh lười làm khổ anh chăm, cò gỗ mổ cò thật. Không hiếm những kẻ “miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”, nói như quả núi làm như hòn cuội. Thế cho nên khi một người trẻ tuổi được chuẩn bị cho chức vụ lãnh đạo cơ quan thì gặp phải một rừng hòn tên mũi đạn. Quang Thiện là nhà báo giỏi, Trưởng ban chương trình, một ban quan trọng, được coi là “nghề trong nghề”, bị vu cáo “học mập mờ, vơ chức bự”. Làn sóng độc ấy lan sang một số tờ báo. Và các tờ báo ấy khi được “chi đẹp” vội vàng câu kết nhau đăng bài xúc xiểm, bôi nhọ, khiến cho cả làng báo xôn xao, cả tỉnh Nam Bình ngơ ngác. Chuyện loang cả đến làng quê của Quang Thiện, khiến cho bố anh, một nông dân cả đời lam lũ trên mảnh đất đồng chiêm trũng, bị sốc nặng phải nhập viện. Và cho đến khi bọn xấu kết hợp cả việc bôi nhọ trên báo với cơ quan thanh tra bộ tấn công bằng mánh khóe và thủ đoạn thì ông bị sốc lần thứ hai và qua đời! Những kẻ ngậm máu phun người đã gây tai họa thật ghê gớm!
Đương nhiên, tác giả tiểu thuyết đã xử lý cao tay khi sóng độc dù có tàn độc đến đâu cũng không thể át được sóng lành. Lẽ phải, sự tử tế dù tạm thời có lúc phải lùi về phía sau nhưng cuối cùng sẽ thắng. Phải mất hơn bốn năm bị cầm tù trong “nhà giam dư luận”, bị vu cáo, bị hiểu lầm, cuối cùng Quang Thiện đã được trả lại công bằng, danh dự. Không phải là tấm bằng đại học được trao một cách đàng hoàng. Không phải là quyết định bổ nhiệm Phó giám đốc Đài Bắc Hà được trao vào lúc bố Thiện đang trong cơn hấp hối và anh không có mặt để nhận. Không phải là quyết định nâng ngạch chuyên viên chính và những chiếc áo khoác khác trên người. Mà nó là danh dự. Là sự thật được gọi đúng tên của nó.
Đại diện cho cái thiện chính là những con người chân chính. Là Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Minh (sau này là Ủy viên Ban Bí thư). Là Bí thư Tỉnh ủy Đinh Trường. Là Tổng biên tập Văn Đức, Hùng Dũng. Đặc biệt là Nguyễn An, một nhà báo nổi tiếng, một cây bút chống tiêu cực sắc nhọn, đã lăn mình vào cuộc bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người trung thực. Nhà văn Trần Gia Thái đã xây dựng khá thành công hình ảnh Nguyễn An sắc sảo, kiên định, tỉnh táo, nghĩa tình. Tiếng nói của nhà báo có uy tín với lãnh đạo các cấp cùng những bài báo thuyết phục của anh đã đi đến cùng sự kiện, góp phần minh định đúng sai, phải trái. Mặc dù có lúc tưởng như tất cả đã... chìm xuồng vì sự tráo trở, ma mãnh của những cán bộ, công chức thoái hóa nhưng “có nghề” đã tận dụng triệt để những khoảng mập mờ, những kẽ hở do cơ chế để khép tội. Chỉ có điều hơi tiếc là những nhân vật cấp cao của tỉnh Nam Bình dường như đều là những vị lãnh đạo hoàn hảo, tốt quá, mẫu mực quá. Họ trong sáng, cẩn trọng và lắng nghe, “lựa” nhiều hơn là chủ động, xử lý kiên quyết, rốt ráo. “Khéo” trong công tác cán bộ là cần, nhưng còn cần phải quyết đoán, ra roi đúng lúc, không để cho Đỗ Thiết và các đệ tử của anh ta quấy đảo, lộng hành trong thời gian dài đến thế.
Tiểu thuyết Sóng độc là tiểu thuyết cuốn hút độc giả đọc liền một mạch. Vậy nó hấp dẫn ở điểm nào? Theo tôi, trước hết là ở tầm tư tưởng cuốn sách. Đây là tiểu thuyết lấy cảm hứng thế sự để khái quát về thân phận con người trong một thời điểm lịch sử, thời đổi mới báo chí gắn liền với công cuộc đổi mới đất nước. Nguồn cảm hứng ấy như men say trong rượu, là linh hồn của tác phẩm, góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu không phải là Quang Thiện thì sẽ là người khác phải chịu o ép, thị phi, cài bẫy khi anh là người trung thực, có năng lực, có cơ được đặt vào vị trí này nọ, cản bước người khác. Hoặc khi anh chủ trương đổi mới cơ cấu nội dung chương trình, thay đổi cơ chế quản lý kinh tế sẽ động vào “mâm cơm” của người khác, anh sẽ “lĩnh đòn đủ”. Cảm hứng thế sự tạo cho tác giả một vùng sáng tạo, một vùng thẩm mĩ, vốn là thế mạnh của Trần Gia Thái - chất thơ trong văn xuôi. Ngay cả khi bị quăng quật, tưởng như bị quăng xuống vực sâu, Thiện vẫn nghĩ đến điều thiện: “Làm sao để vượt qua đòn thù, vượt qua cái ác mà sống. Sống để loại trừ cái ác mà không phải dùng đến cái ác?”.
Những trang viết khiến người đọc ứa nước mắt là khi nhà văn viết về vùng quê đồng chiêm trũng “sống ngâm da, chết ngâm xương” thời gian khó. Người bố trồng xoan, rồi trồng tre, đào ao, vượt thổ dựng căn nhà cho con cháu có chỗ chui ra chui vào. Cái chết của ông Khiêm, bố Quang Thiện khiến ta lặng người đau xót. “Thương bố, Thiện càng căm giận tột cùng những kẻ gây nên chuyện đại ác này. Đêm qua Thiện nằm mơ, một giấc mơ ghê sợ... Những cái mặt thịt lại lởn vởn hiện lên trêu ngươi”.
Sóng độc có nhiều trang đối thoại sinh động, giàu kịch tính. Đối thoại không dừng ở chi tiết mà điều này mang tính học thuật. Cội nguồn của tính đối thoại trong tiểu thuyết là đối thoại về tư tưởng, về quan niệm. Sức hấp dẫn của đối thoại Trần Gia Thái là đã cá thể hóa triệt để tính cách và tình huống đối thoại. Ngôn ngữ nhân vật rất giản dị, rất thực, có cảm giác anh chỉ việc nhặt lấy trong đời sống mà tra vào sách. Từ cách bàn thảo, lập luận, chỉ đạo hội nghị của các vị quan chức đến cách nói của quan thanh tra, của nhà báo, của “Nhóm lá mơ”, nhà sư, bác nông dân ... đều mực thước, hoặc lấm láp đời thường. Chắc hẳn, theo cách nói của Tô Hoài, đây là sự tìm kiếm, “tích lũy chữ” rất công phu. Điều này có phần khác với thơ Trần Gia Thái. Bởi thơ ông nghiêng về triết lý, tính khái quát cao, dồn nén cảm xúc, ngôn ngữ xúc tích, “làm thơ nhưng không để thơ làm”, như những câu thơ ngơ ngác sau: “Giật mình lá mở bừng mắt ướt/ Kìa ai ngơ ngác/ Trăng thượng huyền” (Lặng lẽ sương). Còn văn xuôi lại bề bộn, tung hoành, khi chát chúa, lúc dữ dằn, và ngược lại là những trang văn lấp lánh, ấm áp, trong trẻo tình quê, tình người.
Gấp cuốn sách lại, tôi vẫn thấy trước mắt mình những làn sóng đang dâng lên, cuộn lên. Lẫn trong sóng lành vẫn không tránh được những làn sóng độc. Nhưng với ai đã từng sống trong vùng sóng, hoặc đã lặng lẽ quan sát vùng sóng ấy chắc sẽ có dịp so sánh với sóng độc trong cuốn sách này. Để chiêm nghiệm, để tin yêu vào cuộc sống đang đi tới, dẫu còn bao nhiễu nhương, trắng-đen, thật-giả, thiện-ác... khó rạch ròi. Muốn khách quan, công tâm, rạch ròi như thế thì phải nhìn sâu vào bên trong sự vật, không bị hình thức đánh lừa. Mọi việc phải xem xét thật thấu đáo, đánh giá một con người không thể nhìn vào hiện tượng, nhìn bề ngoài, nhìn vào cái nhất thời mà vội vã, hàm hồ kết luận. Đó cũng là thiên chức của nhà văn, không chỉ miêu tả hiện thực mà điều cần thiết hơn, bền vững hơn là phân tích, lý giải đời sống xã hội bằng những hình tượng nghệ thuật.
Và tiểu thuyết Sóng độc đã đem đến cho độc giả một cách nhìn nhân ái, một bộ lọc, ít nhất là cho chính mình. Điều này ông đã viết trong lời mở sách: “Con chữ là dòng sông thanh khiết, nhiệm màu đã gột sạch những bụi bặm trước khi bước vào thế giới của cái đẹp vĩnh hằng, cái đẹp nghệ thuật”./.
H.Đ
Hà Nội, mùa thu 2022.S.N.M
Nguồn tin: HNV
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn