Cần mẫn với thơ hay

Chủ nhật - 24/12/2023 04:08
(Nhân đọc: Nơi biên cương Tổ quốc và Tiếng lòng nơi đầu sóng - Thơ & lời bình)
Cần mẫn với thơ hay

P.Gs, Ts, Nhà phê bình văn học  Vũ Nho
 
         Nhà giáo - nhà văn Nguyễn Thị Thiện, hội viên Hội nhà văn Hà Nội là một cây bút giàu đam mê. Chị cần mẫn, không ngừng tìm tòi, phát hiện và lan tỏa vẻ đẹp của thơ văn. Những năm gần đây, người đọc gặp nhiều bài viết của chị trên các báo giấy, báo mạng viết về tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ đương đại. Cũng có khi chị viết về các nhân vật lịch sử như Cụ Nghè Nguyễn Đăng Huân…
Nhưng với bạn đọc, trước hết nhà văn Nguyễn Thị Thiện là người đam mê với thơ. Chưa kể một tập truyện ngắn và tập phê bình tiểu luận, tác giả đã xuất bản đến tám tập bình thơ : Trang thơ trang đời (2017), Tình quê tình người, tập 1 (2018), Tình quê tình người, tập 2 (2019), Thơ dâng Mẹ (2020), Quê hương Việt Nam (2020) , Tình Cha con (2021), Nơi biên cương tổ quốc (2022), Tiếng lòng nơi đầu sóng (2023). Bình quân mỗi tập khoảng 32 bài thơ được bình, nhà văn Nguyễn Thị Thiện đã viết lời bình cho khoảng 250 thơ từ cổ chí kim, chủ yếu là thơ hiện đại . Một con số ấn tượng! Thêm một con số ấn tượng khác là rất nhiều bài bình thơ trước khi đưa vào sách đã được đăng trên các báo: Văn Nghệ, Tạp chí Thơ, Phụ nữ Việt Nam, tuần san Đời sống gia đình của báo Phụ nữ Thủ đô, Hạnh Phúc Gia đình của báo Phụ nữ Việt Nam, Giáo dục và Thời đại chủ nhật. Bài viết này đi sâu hơn vào 2 tập bình thơ gần đây nhất của chị, số bài đã đăng báo là 26 bài. Điều đó cũng phần nào nói lên chất lượng các bài bình thơ của cây bút Nguyễn Thị Thiện. Mỗi bài bình đều được tác giả ghi rõ nguồn gốc trích dẫn từ đâu.
Có thể ai đó nghĩ rằng vốn là cô giáo dạy văn THPT, nhà văn dễ dàng lấy các bài thơ trong sách giáo khoa đã dạy để bình, như một công đôi việc. Thật không phải như vậy. Các bài có trong SGK là số ít. Nhà bình thơ đã lựa chọn thơ ở các tập thơ của rất nhiều tác giả, thơ đăng trên báo, thơ trên trang Blog hay trên Facebook cá nhân. Tất cả đều là sự tìm tòi chắt lọc, công phu. Những bài có trong SGK như: Nam quốc sơn hà, Tây Tiến, Đất nước ( Tập Nơi biên cương Tổ quốc); Phú sông Bạch Đằng, Cửa biển Bạch Đằng, Biển, Đoàn thuyền đánh cá, Mẹ Tơm, Những cánh buồm, Quê hương ( ập Tiếng lòng nơi đầu sóng). Chỉ có 10 trên tổng số 64 bài thơ được chọn. Việc tìm những bài thơ hay cùng chủ để Để bình giảng theo hệ thống đã công phu. Việc tìm ra nét độc đáo về tư tưởng và đặc sức nghệ thuật của mỗi bài còn khó hơn rất nhiều. Nhưng với tấm lòng say mê thơ ca, với kiến văn phong phú và kinh nghiệm đã bình hàng trăm bài trong các tập bình thơ trước đó, nhà văn Nguyễn Thị Thiện đã vượt qua thử thách này khá ngoạn mục.
Trước tiên phải kể đến việc đặt tên (rút tít) cho các bài bình. Tác giả đã khá tinh tế, thông minh đặt những tên cho các bài bình rút từ chính một câu thơ hay chủ đề , tư tưởng nổi bật của bài thơ. Chúng tôi cho rằng việc “rút tít” thành công cũng là thể hiện định hướng đúng cho việc triển khai bài viết. Ví dụ có không ít những nhan đề bài bình gợi cảm như : Tây Tiến (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh); Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Đường ra trận mùa này đẹp lắm); Chiếc gương soi trên buồng lái ( Vì chính em là một tấm gương), Cây xấu hổ (Và chuyện này chỉ cây biết với anh), Đêm sông Cầu ( Giữ tình yêu như giữ lửa),… (Tập Nơi biên cương Tổ quốc). Còn tập Tiếng lòng nơi đầu sóng, thì có : Con rùa đội núi (Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm đất trị bình), Quê hương (Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ), Mẹ Tơm (Những trái tim như ngọc sáng ngời), Những cánh buồm ( Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con), Thơ viết ở biển (Vì sóng đã làm anh nghiêng ngả vì em), Thuyền và Biển ( Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố), Gửi em và con (Con là cánh buồm cha gửi đến mai sau),…
Với một loạt các bài thơ từ trung đại, qua kháng chiến chống Pháp, qua kháng chiến chống Mĩ, rồi đất nước hòa bình thống nhất, đôỉ mới, hội nhập,… với các bút pháp và phong cách vô cùng khác nhau, ngươì bình thơ đã có cách xử lí linh hoạt mềm dẻo. Vẫn là cách bình câu thơ, khổ thơ, cách phân tích hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, nhưng gia giảm thế nào, kết hợp theo tỉ lệ ra sao để không rơi vào trùng lặp, đơn điệu. Khi thì giới thiệu tác giả, khi thì giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bài thơ, khi lại trực tiếp nói về các bài thơ cùng chủ đề, khi so sánh bài thơ được bình với một bài thơ khác, khi giới thiệu cảm hứng của nhiều thi sĩ khác…
Cách kết thúc mỗi bài viết cũng khá đa dạng. Khi người ta đã viết mở đầu và kết thúc cho hàng trăm bài bình thơ thì việc này quả là không dễ dàng. Làm sao để cái kết như là sự tất yếu, như là một gói lại, nhưng đồng thời lại như một sự mở ra. Làm sao cái kết có thể như bỏ lửng, mời gọi bạn đọc suy nghĩ tiếp. Chúng tôi có lần đã nghiên cứu về các kiểu kết thúc của một bài thơ. Khá thú vị khi thấy tác giả Nguyễn Thị Thiện kết thúc các bài bình thơ một cách linh hoạt, tự nhiên. Xin dẫn một vài ví dụ ngẫu nhiên. Kết bài “Thuyền và Biển”, tác giả dẫn ca khúc và kết luận : “Bài thơ và ca khúc như chim liền cánh, cây liền cành đã được lan tỏa rông rãi trong đời sống tinh thần của người Việt và sẽ còn sống mãi với thời gian”. Kết thúc bài “ Gửi em và con” người viết bình luận “Thơ hay luôn nhận được sự cộng hưởng của lòng người. Với bài thơ này, đúng như Sel-xlây ( Anh) đã nói : “ Thơ ca làm cho tất cả những điều tốt đẹp nhất trên đời này trở thành bất tử”. Kết luận bài bình Biển: “Có người nói : Thơ chị nghiêng về phía những cảm xúc tinh tế, tơ mỏng với tấm lòng đôn hậu. Biển là một minh chứng về phong cách thơ ngọt ngào, sâu lắng, giàu nữ tính của Lâm Thị Mỹ dạ nên được nhiều bạn đọc yêu thích”. Còn đây là kết thúc bài bình Cho “Biển đêm” : “Cám ơn nhà thơ Nguyễn thị Hồng Ngát đã nói hộ tiếng lòng dào dạt rung ngân của bao trái tim phụ nữ khi xa cách người yêu” ( trong tập Tiếng lòng nơi đầu sóng).
Có thể coi lời tâm sự "Cùng bạn đọc" của tác giả Nguyễn Thị Thiện trong mở đầu tập “Tiếng lòng nơi đầu sóng” cũng là lời bày tỏ chung cho cả hai tập bình thơ này, vì đều viết lời bình các bài thơ về người lính ở nơi biên cương và nơi hải đảo: “Ngày thường, các anh canh gác cho Tổ quốc bình yên. Khi có giặc, các anh sẵn sang chiến đấu kiên cường, hi sinh anh dũng cho em thơ yên giấc ngủ say nồng; cho cháu nhỏ tung tăng đến trường học tập, cho bạn trẻ lên giảng đường tích lũy tri thức, chắp cánh ước mơ để ngày mai bay vào bầu trời cuộc sống, cho người già được an vui bên cháu con… Công lao của người chiến sĩ không lời nào nói hết được … Qua cuốn sách nhỏ này, người viết muốn bản thân cũng như nhiều người hiểu thêm về cuộc sống của người chiến sĩ, bày tỏ long yêu quý, ngưỡng mộ, tri ân đối với các bậc tiên hiền và Anh Bộ Đội Cụ Hồ”.
Với 2 tập sách tuyển chọn công phu cùng những lời bình dung dị, dễ hiểu, có những chỗ thăng hoa,…nhà văn Nguyễn Thị Thiện đã đóng góp đáng kể vào đời sống văn học hiện nay.
Nếu có điều gì muốn góp thêm với tác giả để lần tái bản sẽ tốt hơn, đó là lai lịch bài thơ Nam Quốc Sơn hà. Các tài liệu cũ cho là của Lý Thương Kiệt. Nhưng sách giáo khoa THCS cũng đã đính chính (xem Ngưc văn 7 tập 1, Nxb Giáo Dục, 2003 tr. 63). PGS Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định bài thơ này có trước khi Lý Thường Kiệt đánh nhau với quân Tống, nên không thể do Lý Thường Kiệt viết.
Cho đến nay, theo những gì chúng tôi biết còn hạn hẹp thì có lẽ người viết lời bình nhiều nhất cho các bài thơ (chủ yếu là thơ cổ) là nhà văn cựu chiến binh Vũ Bình Lục; tiếp theo là tập “Bình thơ” đồ sộ của nhà thơ Vũ Quần Phương. Một người có tên trong “kỉ lục bình thơ” chính là nhà văn Nguyễn Thị Thiện. Từ giáo viên Văn trở thành nhà bình thơ, lại là bình thơ có kỉ lục với 8 tập đã in. Nguyễn Thị Thiện đúng là con ong chăm chỉ luôn tìm tòi và lan toả vẻ đẹp của thơ văn.
 
Hà Nội, 30 tháng 6 năm 2023
V.N

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây