Nguyễn Thị Minh Bắc
Bên cạnh các tác phẩm văn xuôi được đông đảo bạn đọc đón nhận, Phạm Thị Phương Thảo còn được biết đến là một tài thơ đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong sự hâm mộ của bao người, qua 12 tập thơ và 4 tập trường ca. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Trường ca là tác phảm dài bằng thơ, có nội dung, ý nghĩa xã hội rộng lớn”(Nxb ĐHQG, Tp HCM, 2008). Đúng vậy, “Giọt giọt đêm Hà Nội”- tập trường ca mới của Phương Thảo được ra mắt đúng vào dịp kỉ niệm 70 năm giải phóng Thủ đô là thành quả của cả một quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, đầy sáng tạo và say mê. Nhằm góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn tinh hoa văn hóa Thăng Long Hà Nội trong cuộc sống hội nhập với văn hóa nhân loại ngày nay.
Tập trường ca “Giọt giọt đêm Hà Nội”, NXB Hội Nhà văn, 2024 của Phạm Thị Phương Thảo gồm 12 chương và 81 khúc ca. Mỗi một khúc ca đều in đậm những kí ức, hoài niệm về Thăng long Hà Nội, Tình yêu Hà Nội, yêu truyền thống văn hóa dân tộc của tác giả luôn tan chảy trong từng hình ảnh thơ, lấp lánh một vẻ đẹp riêng, dồi dào nhịp sống, có sức hấp dẫn, sức cuốn hút đặc biệt. Hình tượng Giọt giọt đêm cứ trăn trở, lặng lẽ cuốn theo thời gian, không gian, tâm tưởng, tâm trí, cảm xúc... của nhà thơ. Hiện rõ một tâm hồn khao khát, chìm và lắng rất sâu vào vùng đất Thăng Long xưa - nay, với bao số phận, bóng dáng con đường, phố cổ, âm thanh, sác màu, hương vị...
Nhiều nét đẹp đặc trưng của Hà Nội được gợi về bằng những hình ảnh thơ sinh động cụ thể: “Gió sông Hồng thổi cong con đê cũ.../ Hồ Trúc Bạch sương trắng thức cùng đêm/ Đâu phải chỉ là 36 phố phường/ Bộn bề nỗi đau kẻ chợ”. Chị hòa mình vào từng giọt đêm để lắng nghe, thấu hiểu, thu lượm từng âm thanh mà chiêm nghiệm cuộc sống người Hà Thành. Đón nhận từng tiếng giao đêm, tiếng xe xích lô, tiếng lao xao của chợ đêm Đồng Xuân, những tiếng dương cầm vọng qua phố vắng. Ấn tượng nhất là tiếng ca trù khoan nhặt theo nhịp phách bên đình cổ... Tất cả những thanh âm phố phường ấy, cứ vấn vít, vang ngân, khơi dậy, đánh thức kí ức tuổi thơ, vừa lung linh xa mờ, vừa hiện hữu, ẩn hiện những vui buồn của đời người, của văn hóa, lịch sử dân tộc.
Trục cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tập thơ
Có thể nói, ĐÊM là thời gian nghệ thuật đầy ám ảnh, cũng chính là trục cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tập trường ca. Điều đó đã toát nên được chủ ý nghệ thuật của tác giả ngay từ tên đề của cuốn sách - “Giọt giọt đêm Hà Nội”. Nhà thơ Phương Thảo chọn thời gian Đêm cho dễ cất lên tiếng nói chân thực của lòng mình, thể hiện sự đào sâu suy ngẫm vào bản thể, chiêm nghiệm từ thực tế từng trải qua bao thăng trầm của cuộc đời. Đêm trong thơ Phương Thảo vì thế đã trở thành một hình tượng nghệ thuật độc và lạ. Độc và lạ ngay từ phần mở đầu tập thơ:
Ban đêm mọi cảnh vật dường như đang chìm trong giấc ngủ, trong sự lặng tĩnh, thường cũng là lúc khơi dậy cảm hứng ở độ thăng hoa với thi nhân. Điều đó khiến ta hiểu vì sao trong thơ chị hiện về ngổn ngang bao nỗi nhớ. Nỗi nhớ nào cũng xốn xang, xao động, đẹp như một giấc mơ. Là giấc mơ nên hình ảnh Hà Nội với cội nguồn lịch sử được hóa thân hiện về qua lời kể của sông Hồng, dãy phố, hàng cây, các di tích, địa danh và mặt hồ soi bóng..., tất cả đều lung linh hiện hữu.
Nhà thơ rót mê đắm ngọt ngào vào câu chữ để dệt thành “bản tình ca không tên”, nối quá khứ với hiện tại, đẹp đẽ, thuần khiết và rất thơ mộng. Bản tình ca ấy cứ ngân dài, vang xa, vọng về cái thời gian hồng hoang xa lắc. Đó là “Hà Nội ngàn năm/ Hồn cốt Thăng Long trầm tích/ Đêm nay chợt vỡ òa/ Trở dạ hân hoan”. Cứ thế, cứ thế, mạch cảm xúc của nhà thơ tan chảy vào trùng điệp dày đặc các di tích lịch sử, văn hóa, những cảnh sắc thiên nhiên diêm lệ thuần khiết, rất đỗi tự hào về Hà Nội.
Đêm trong “Giọt giọt đêm Hà Nội” của chị được gợi tả rất đa dạng, nhiều dáng vẻ, với nhiều cung bậc tình cảm rất tự nhiên, khéo léo. Có hàng trăm nghìn dáng vẻ của đêm mà vẻ nào cũng hiện rõ hồn thiêng Hà Nội. Nó đan kết hòa quyện để nối ngày qua đêm, nối các mùa trong năm, nối ngày xưa đến nay và mai sau. Ở những mấu nối ấy tạo thành những liên tướng rất sâu, tạc vào thời khắc dêm Hà Nội bằng những hình ảnh độc đáo, trân quý về một Thủ đô nghìn năm văn hiến.
Chiều sâu ấn tượng nhất trong đêm Hà Nội là âm thanh. Đêm càng khuya, âm thanh càng lánh lót, xao động lòng người. Nếu không có một tình yêu ca hát thì khó có thể nhập cuộc, mê đắm trước một tiếng dương cầm hay một giọng ca trù. Chẳng thế mà khi diễn tả về những âm thanh ấy, Phạm Thị Phương Thảo đã dành trọn hẳn một chương: chương VII, giọt giọt dương cầm (tr 90) và chương II với “giọt giọt ca trù” (tr 37).
Suy ngẫm về ca trù, nhà thơ cảm được sâu xa ý nghĩa của nó. Ở phần đầu chương II – trong “Giọt giọt đêm ca trù”, chị viết:
“Đêm ca trù tiếng phách, tiếng đàn/ Giọng ca buồn cất lên, cất lên/ “canh khuya đưa khách...”, lời em hát (...)Như thực, như mơ/ Hồng hồng tuyết tuyết/ Lời ngọc tiếng tơ/ Đêm Hà Nội, nghe tiếng phố và trăng cùng thở” . Những giai điệu quen cũ “hồng hồng, tuyết tuyết” gợi về những mơ màng xa xăm.
Đúng như nhà thơ đã nhận xét, “ca trù xưa, thú vui tao nhã đến bây giờ”. Bởi giai điệu của lời ca vẫn vang vọng tiếng tơ tiếng trúc, da diết, u hoài, trầm tư trong nhịp phách, đàn. Giọng ca nương trong ngôi đình cổ, cứ len lỏi vọng vào đêm vắng những “chuyện xưa nghe thăm thẳm tiếng giọt giọt buồn”, vọng vào mặt nước Hồ Gươm, phảng phất trên những con phố vắng, với điệu “tom tom chát...” xáo động hồn Thăng Long, đánh thức sóng sông Hồng.
Thơ Phương Thảo hàm súc, giàu sự liên tưởng, gợi mở về tận ngọn nguồn “quý phái” của nghệ thuật ca trù. Nhà thơ đưa người đọc trở về thời “hoàng kim thơ Đường”, đến với Thần thơ Bạch Cư Dị để thưởng thức giọng ca cho đã:
Nói về sức hấp dẫn của ca trù, Phương Thảo liên tưởng ngay đến tiếng đàn Tỳ bà mà Bạch Cư Dị tiễn khách trên bến Tầm Dương, tại thị trấn Cửu Long Giang, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Nghe tiếng đàn Tỳ bà khi khoan, khi nhặt, khi to khi nhỏ, khi ào ạt như mưa rào, khi nỉ non tâm sự. Tiếng đàn ở đây được diễn tả ở nhiều cung bậc, nhiều giai đoạn cảm xúc khác nhau: vừa có tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau, vừa có tiếng ríu rít của oanh ca, tiếng nước sa xuống ghềnh, lại vừa có tiếng binh khí va nhau, có tiếng lụa xé và tiếng bình hạc vỡ... Mô tả tiếng đàn là biểu thị tài năng của người chơi, tâm trạng đầy thán phục của người nghe và sự sẻ chia đồng cảm của tác giả.
Nói về ca trù Hà Nội, nhà thơ nhắc tới ca nương Bạch Vân trong (khúc ca 11): “Ca trù chị hát đêm nay/ Giọt đêm say đắm, ngất ngây bao người”. (Tr. 37). Nhà thơ Phương Thảo trân trọng và cảm phục nghệ sĩ Bạch Vân và tình yêu lối hát ca trù của chị. Năm 1996, Bạch Vân mở một câu lạc bộ hát ca trù Hà Nội, nhằm khôi phục lối hát một thời bị lãng quên. Phương Thảo cũng từng đến dự, nên rất cảm kích, nhắc tới Bạch Vân trong khúc ca này:
Lời thơ như dẫn dắt người đọc ngập chìm vào không gian nghệ thuật ca trù. Không gian ấy được giới thiệu thật đặc biệt ấn tượng với giọng ca buông lơi, nhả lời cùng đàn phách, tạc vào đêm Hà Nội, rót thổn thức vào lòng người nghe, vào những nỗi niềm gian truân của kiếp hát. Hình ảnh “mây trắng buông lơi” đầy sức gợi. Mây trắng làm cho trời cao hơn, đẹp hơn, lãng mạn hơn, nhưng ở đây, mây trắng cũng chưa hẳn là mây trắng. Có màu trắng, nhưng là màu trắng của sự phôi pha, tan loãng. Liền đó là mây trắng thiên di, ngại gì gian truân... tạo ra cái đối lập về số phận. Câu thơ nói đến “ca trù, mùa thả trắng trong lên trời”, ý thơ nói Bạch Vân như tan vào mây trắng, cũng vĩnh hằng như ca trù Hà Nội với cái tên ca nương Bạch Vân. Điệp từ mây trắng được nhắc lại trong đoạn thơ, một lẫn nữa nhấn mạnh, khắc sâu thời gian thăng hoa và nỗi niềm trắc ẩn với bao ngẫm suy về việc bị lãng quên của nghệ thuật hát ca trù, cũng như số phận người nghệ sĩ “Ả đào” một thuở.
Cùng với ca trù, tiếng dương cầm thánh thót trong đêm Hà Nội, ngân những khúc nhân gian mở ra ngày mới với nhiều điều thú vị. Thật sáng tạo, khi nhà thơ đã nhuộm tím “tiếng dương cầm trong đêm Hà Nội” trong “Giọt giọt dương cầm” (chương VII, khúc ca 34- 38).
Phương Thảo lang thang cùng “những phím đàn long” trên sân vắng đầy lá rụng, theo dấu chân buồn xưa Phan Vũ. Thẩm thấu tiếng đàn Piano trong đêm, chị nhân rõ con “mắt phố” nhức đau, khoáy sâu vào kí ức của 12 ngày đêm, khi giặc Mĩ ném bom dữ dội, phá nát phố Khâm Thiêm, phá gẫy cầu Long Biên Hà Nội (1972).
Đồng thời, mỗi góc phố cũng là một thiên tình sử, tạc vào kí ức không quên những tên tuổi các nghệ sĩ tài ba như “ Trịnh Thị Nhàn hay Đặng Thái Sơn”... Đêm trăng về, những cuộc đời còn mất, giọt dương cầm chìm, khuất, tan vào phố vắng, tạc vào không gian vũ trụ mênh mông.
Buổi sớm khi bình minh thức dậy, dương cầm ngân vang những tình khúc nhân gian lướt trên mái phố. Đi trên con phố Nguyễn Đình Thi ven Hồ Tây, nhà thơ liên tưởng nhớ bản “hùng ca Người Hà Nội” và ngưỡng mộ chí khí quyết tâm của người Hà Nội ra đi kháng chiến, bỏ mặc “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy...”.
Phải tinh tế lắm, nhà thơ mới có thể hình tượng hóa Giọt giọt dương cầm bằng màu săc, âm thanh, ánh sáng, lúc ban mai, khi trời thu mưa, nắng, với đêm trăng hoa sấu rắc vàng thềm phố, một cách tự nhiên đến vậy.
Mượn lời Kể của sông Hồng, Phương Thảo làm sống dậy hồn cốt Hà Nội cả nghìn năm văn hóa với bao trầm tích. Đưa người đọc trở về thuở hồng hoang mà lắng nghe, suy ngẫm, tự hào vơi điểm nhấn là việc vua Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư về đất Thăng long:
Hoàng thành Thăng Long - dáng Rồng bay, đậm dấu ấn văn hóa Á Đông, chứa đựng cả niềm tin hi vọng vào sự phát triển tốt đẹp lâu dài của đất nước.
Tứ thơ giàu tính sáng tạo
Tên của tập thơ - giọt giọt đêm Hà Nội đã là một tứ thơ độc và lạ, chi phối toàn bộ nội dung, ý nghĩa tác phẩm. Mỗi giọt giọt đêm trong thơ Phạm Phương Thảo là một tứ thơ, biểu đạt về một trạng thái tâm tư riêng thật đặc biệt. Sức hấp dẫn của thơ Phạm Phương Thảo chính là ở tứ thơ lạ và hay ấy. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tứ thơ là cảm xúc thơ, hoặc ý nghĩa hình ảnh thơ. Cấu tứ là tạo được hình tượng có khả năng khêu gợi được cảm xúc thơ, tức cái cảm xúc nhân văn của tâm hồn con người. Đó là sự kết hợp hình ảnh sống động và ý thơ, sao cho sự sống của hình ảnh càng triển khai ra càng thêm nhiều ý nghĩa”(Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992, tr 208). Trong thơ, Phạm Phương Thảo tỏ rõ sự cân nhắc kĩ lưỡng khi chọn tứ thơ, tạo ra một cách nhìn, một cách cảm và một cách nghĩ của riêng mình. Chính cái tứ thơ Giọt giọt đêm Hà Nội ấy chi phối toàn bộ cảm xúc, là “chiếc xe” chuyển tải nội dung và ý nghĩa, hiện rõ một hồn thiêng đặc trưng kinh kì Hà Nội, rất giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
Với cách viết độc đáo này, Phương Thảo đã đem đến sự đồng cảm sâu sắc tới đông đảo người dân Hà Nội. Chứng tỏ việc tìm tứ để diễn đạt ý thơ của tác giả là công việc lao động nghệ thuật tinh vi, nó vừa đòi hỏi một sự khổ công tìm tòi, vừa phải có một tài năng sáng tạo. Bởi tứ thơ có thể nảy sinh từ hình tượng xuyên suốt cả bài thơ, có thể nảy sinh từ một cảm xúc chung rồi dẫn dắt ra những dòng suy nghĩ, liên tưởng về Hà Nội.
Điều đáng quý là ở đây, Phương Thảo đã chọn hình tượng giọt giọt đêm làm nên cái tứ thơ độc đáo, xuyên suốt tác phẩm. Nhiều khúc ca kế tiếp nhau cũng đều là giọt giọt đêm, như: “giọt giọt đêm ca trù”, “giọt giọt dương cầm” cùng dăng mắc, hé lộ bao yêu thương tha thiết, với rất nhiều ẩn ức và những hoài niệm khó giãi bày. Nên nhà thơ đã tin cậy, trao gửi nỗi lòng, kí thác vào “Ca trù chị hát đêm nay/ Giọt đêm say đắm, ngất ngây bao người...Mênh mang sông nước đầy vơi/ Hồ Tây dào dạt, đất trời ngả nghiêng”. Đó là tâm trạng có thực của nhà thơ đã trở thành một khuynh hướng nghệ thuật, đậm chất nhân văn, khơi gợi tình đời, tình người Hà Nội thanh lịch.
Đêm trong thơ Phương Thảo cũng là một tứ thơ biểu hiện rõ không gian và thời gian nghệ thuật, bằng những hình tượng phong phú, giàu sức gợi, có liên hệ sâu xa với văn hóa kinh đô Thăng long Hà Nội. Đó là con “Sông Hồng chứng nhân lịch sử.../ Ghi trên mảnh đất Thăng long/ Nhớ xưa một vùng châu thổ/ Làng quê lúa xanh trù phú/ Vùng đất ấy thật linh thiêng/ Một dáng “rồng cuộn hổ ngồi!”. Đó là Hà Nội với 36 phố phường xưa, với bao thăng trầm, bao số phận buồn vui đời người và cuộc sống hôm nay với những hi vọng vươn xa...để hòa nhập thế giói.
Thể thơ đa dạng, nghiêng về hiện đại
Tập trường ca “Giọt giọt đêm Hà Nội” rất đa dạng về thể thức. Thể thơ không chỉ gắn với nghệ thuật ngôn từ mà còn phải được xem như là biểu hiện của quan niệm thẩm mĩ đối với đời sống. Ý thức về con người cá nhân và sự vận động đổi thay của Hà Nôi, của xã hội, trong thơ Phạm Phương Thảo được thể hiện rõ bởi lối thơ tự do, mang phong cách hiện đại. Có cả những bài thơ văn xuôi, không bị bó buộc vào câu chữ, tiến tới xóa nhòa khoảng cách giữa thơ và văn xuôi,.
Một số bài thơ tứ ngôn, ngũ ngôn, mang hơi hướng Kinh thi rất chuẩn. Như “Gió sen còn thổi đêm ngày...” (khúc ca 56, tr 129). “nụ đêm” (khúc ca 57, tr 130)... Trong “Dương cầm trăng” (khúc ca 38, tr 96), thể thơ 4 chữ dặt dìu qua nhiều cung bậc cũng đủ trở thành một giai điệu Hà Nội buồn đẹp, mãi ngân vang trong lòng người đọc:
Ý thơ chứa đựng một nỗi buồn man mác cõi xưa, lấm tấm rơi, phủ trên thềm phố một màu vàng hoài cổ. Ở đây nhà thơ đã mượn hình ảnh giọt dương cầm của người nghệ sĩ tài ba để bày tỏ cảm xúc trầm lắng trong tâm thức mình về nỗi buồn nhân tình thế thái, không chỉ với người Hà Nội mà là chung của mọi người.
Tiếp nối truyền thống, tìm về mạch nguồn dân gian, thơ lục bát trong tập trường ca ít, nhưng rất giàu chất trữ tình, giàu nhạc điệu, mượt mà, uyển chuyển. Những khẩu ngữ, tục ngữ, cách ví von so sánh rất giàu sức gợi: “Hà Thành sương khói mang mang/ Nồng nàn giấc phố, mùa sang, ả đào” (khúc ca 8, tr 41). Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị lớn nhất của cả nước, cũng là nơi hội tụ được nhiều tinh hoa, tinh tú, nhiều người tài giỏi về đây. Hà Nội tuy không sản sinh ra ca trù nhưng là nơi tập trung nhiều nghệ nhân ưu tú, đam mê lưu giữ, lan tỏa nét đẹp quý phái, thông tuệ của nghệ thuật hát ca trù nổi bật trên cả nước. Bởi ca trù rất kén người chơi và người thưởng thức. Nên khi nói đến ca trù Hà Nội, Phương Thảo nhắc ngay tới người có công lớn lập ra câu lạc bộ ca trù Hà Nội là “Ca nương Bạch Vân”(khúc ca 1 1, tr 49):
Những lời thơ dung dị ấy được nhà thơ sử dụng vần điệu tuân thủ theo quy tắc lục bát, thể hiện sinh động không gian, thời gian, các địa danh, di tích cổ xưa, nổi bật nét đặc trưng Hà Nội.
Đôi khi để tạo dấu ấn riêng biệt, lạ hóa, nhà thơ đã sử dụng tách câu thơ ra làm nhiều dòng, để làm mới thể thơ này: “Giang tay vén gió/ Hoa thành/ Giấc/ Sen...” Hướng đến lối thơ tự do, thơ văn xuôi, thể thức thơ hiện đại đòi hỏi nhà thơ phải đi sâu tìm tòi, khám phá, sáng tạo nghệ thuật. Không ít các khúc ca là thơ 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ ; rồi ngắn tới 1, 2, 3 chữ, hoặc kéo dài bằng những đoạn thơ văn xuôi trong (Khúc ca tháng tư)...., Sử dụng lối thơ tự do để tác giả tránh sự sáo mòn ngôn ngữ, sự khuôn mẫu về nhạc điệu, nhằm gây được ấn tượng mới mẻ, hấp dẫn. Việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ, khiến thơ dễ nhập vào người đọc và trở nên gần gũi cuộc sống.
Hướng tới kỉ niệm 75 năm ngày giải phóng thủ đô, có rất nhiều văn nghệ sĩ viết về Hà Nội, trong số đó có nhà thơ Phương Thảo. Chị thu lượm những tinh hoa Hà Nội, đặc biệt nhấn sâu vào nghệ thuật hát ca trù, viết nên bản trường ca Giọt giọt đêm Hà Nội. Tác phẩm là sự kết tinh, kết tụ, giao hòa và thăng những nét đẹp tinh hoa của Hà Nội. Ca trù được chị nhắc đến nhiều vì giọng ca này rất khó hát, quý phái. Nó là thứ nghệ thuật dân gian bác học, kén nghệ nhân và kén thính giả, được giới “trí thức” Hà Nội ngưỡng mộ. Chả thế mà sau bao thăng trầm quên lãng, đến nay nghệ thuật hát ca trù vẫn xứng danh là “một nét văn hóa thủ đô Hà Nội”.
Hà Nội là nơi tập trung nhiều những gương mặt anh tú, hội tụ tinh hoa của mọi mọi miền đất nước. Đúng như câu nói: “Tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng Hà Nội sinh ra và lớn trong tôi”(Nguyễn Phan Quế Mai). Cũng giống như chúng tôi, Phương Thảo với Hà Nội là người như thế.
Tập trường ca của chị vừa thể hiện tình yêu Hà Nội, vừa góp phần lan tỏa những ý nghĩa tích cực vào việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Hà Nội. Góp phần xây dựng một thủ đô văn minh, giàu đẹp, hòa bình, thân thiện và hội nhập thế giới. Hi vọng nghệ thuật ca trù Hà Nội sẽ ngày càng nức tiếng vang xa, hòa nhập mà vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa Thăng Long, Hà Nội.
N.T.M.B
Nguyễn Thị Thiện
1. Hà Nội, nguồn cảm hứng lớn trong dòng chảy văn học Việt. Thủ đô Hà Nội không chỉ là trái tim yêu quý của cả nước, trung tâm hành chính, kinh tế quốc gia, còn là di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng, nguồn cảm hứng dồi dào của các nghệ sĩ. Bạn đọc từng biết đến Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam; Phố phường Hà Nội xưa của Hoàng Đạo Thúy; Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài; Hà Nội lầm than của Trọng Lang, Hà Nội rong ruổi quẩn quanh của Băng Sơn; Phố - tiểu thuyết của Chu Lai…Thật thú vị giờ đây, chúng ta lại có trường ca “Giọt giọt đêm Hà Nội” giàu xúc cảm của nhà thơ Phạm Thị Phương Thảo. Tác phẩm như một bông hoa ngôn từ thắm sắc ngát hương dâng tới bạn đọc mừng Ngày Kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô 10/10 (1954 – 2024).
2. Phạm Thị Phương Thảo là người say đắm văn chương. Chị sinh năm 1959 ở Lào Cai nhưng sống tại Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Thời thanh xuân, chị dành tâm sức cho chuyên môn và gia đình. Gắn bó với ngành y, từng giữ chức Viện phó Viện Kiểm nghiệm An toàn thực phẩm quốc gia - Bộ Y tế. Song vốn là học sinh giỏi Văn phổ thông, với trái tim mê đắm thi ca, chị đã viết nhiều bài thơ văn ở những chủ đề khác nhau nhưng chỉ cho riêng mình, cất trong ngăn tủ. Năm 2010, nhân dịp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, chị mới tập hợp in thành sách, cho ra mắt liên tục các tác phẩm văn thơ gửi tới bạn đọc. Đén nay, chị có 25 ấn phẩm ở nhiều thể loại: Thơ, tản văn, trường ca, tùy bút, tiểu luận và phê bình văn học; thể loại nào chị cũng có những thành công rất đáng ghi nhận.
3. Trường ca “Giọt giọt đêm Hả Nội” gồm 192 trang in khổ 13 x 20,5cm do NXB Hội Nhà văn ấn hành tháng 8 năm 2024, là trường ca thứ tư trong gia tài thi ca của chị. Trường ca là tác phẩm dài bằng thơ mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. Nhan đề và xuyên suốt tác phẩm, nhà thơ đã chọn đêm là thời gian nghệ thuật để nói lên tiếng nói cảm xúc dạt dào tình yêu đất và người Hà Nội, nơi lưu giữ vẻ đẹp đặc sắc văn hóa Hà Thành, kết tinh truyền thống anh dũng kiên cường trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc; cần cù sáng tạo trong xây dựng và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Nhà văn Phùng Văn Khai viết trong lời mởi sách: “Từ lâu nay, viết về Thăng Long - Hà Nội, có nhiều tượng đài thơ đã trở thành bất tử. Nhưng Hà Nội không thể nào chỉ của riêng cho người có tên tuổi. Hà Nội cao rộng trầm hậu thăm thẳm cội nguồn lịch sử từ những mạch rễ li ti mà vươn khắp bốn phương trời. Hà Nội là một thức quà tâm hồn tuyệt không bao giờ chỉ dành riêng cho người Hà Nội” (tr 10). Vì thế, nữ nhà thơ đã nói lên tiếng lòng mình về Hà Nội dấu yêu. Tác phẩm gồm 12 chương, 81 khúc ca; mỗi chương khúc là một đoạn, chủ đề tương đối độc lập. Bạn đọc từng phần riêng lẻ cũng nắm được mảnh ghép tâm trạng, cảm xúc tác giả. Tất cả hợp nên một chỉnh thể, liên kết chặt chẽ cùng làm rõ về người Hà Nội hào hoa, thanh lịch, đất Hà Nội giàu truyền thống lịch sử, văn hóa.
Khởi đầu trường ca viết về sông Hồng – dòng Sông Mẹ mênh mang chở nặng phù sa với lấp lánh những vẻ đẹp gắn với Thăng Long – Hà Nội. Kết thúc trường ca cũng viết về nơi phên giậu đầu nguồn miền đất Lào Cai, quê hương tuổi thơ tác giả. Những trang đầu, người đọc được đến với những câu thơ đẹp về Hà Nội, nơi kết tinh hồn thiêng sông núi: “Sương khói, sương khói linh thiêng ngàn năm/ Hà Nội ngàn xanh, tinh hoa gọi hồn xưa, phố cũ/ Vẫn ngàn năm mơ khát vọng hòa bình/ Bên sông Hồng, lắng nghe sông kể chuyện”. Từ đây, nữ sĩ tìm về Hà Nội của những trầm tích, lắng nghe Sông Hồng kể chuyện qua âm vang của dòng sông như còn văng vẳng tiếng ca trù: “Sông Hồng đêm nay ngân vang tiếng ca trù/ Tiếng sóng vỗ về, hay sông Mẹ hát ru?”. Thi nhân gợi để mọi người cùng nhớ về ca trù – một trong 15 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ca trù là loại hình nghệ thuật độc đáo mang đậm chất “thính phòng”, hòa quyện giữa thơ và nhạc với kỹ thuật hát khi khoan khi nhặt, lúc tha thiết lúc dập dìu: “Âm thanh/ Giọt giọt đêm, là giọt giọt ca trù/ Dập dìu khói sương, lời châu ngọc thiên thu” thật tinh tế. Và “Ca trù ai hát hôm nay/ Tiếng tơ tiếng trúc lòng này ngẩn ngơ” (tr 43). Tiếp đó, tác giả nhớ những ngày Hà Nội kháng chiến chống Pháp “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” để giờ đây “Quán Thánh uy nghiêm với tượng đài” các chiến sĩ cảm tử (tr 83). Đây nữa là những tháng ngày Hà Nội bị những hung thần không tặc Thần Sấm và Pháo đài bay B52 của Mỹ bắn phá dữ dội:“Hà Nội mười hai ngày đêm/ Bom rơi đạn nổ Khâm Thiên nát nhàu (tr 44). Đế quốc Mỹ ném bom tàn sát nhiều nơi, rõ nhất là khu phố Khâm Thiên, phố Hai Bà Trưng, bệnh viện Bạch Mai… Biến đau thương thành hành động, người Hà Nội kiên cường chiến đấu bảo vệ quê hương: “Những chàng trai, cô gái Thủ đô/ Ánh mắt sáng và nụ cười rạng rỡ/ Vẫn “Súng trên vai, sao vuông đầu mũ”. Cùng với quân dân cả nước, nhân dân Thủ đô không tiếc tiền của, máu xương, tham gia chiến đấu ở những mặt trận ác liệt nhất, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ra khỏi cuộc chiến, Hà Nội những năm 80 đầy gian khó và thiếu thốn. Nhà thơ không né tránh mà ghi lại cảm xúc rất chân thực: “Sung sướng mau quên cái nghèo luôn nhớ”; càng nhớ hơn vẻ đẹp của Hà Nội với cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời:“Hà Nội ngày ta yêu nhau/ Cây xanh trên từng mắt lá/ Hồ Tây sóng xô nhè nhẹ/ Em cười thơm nắng búp sen” (tr 57). Hà Nội suốt 12 tháng, ngày nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là những ngày thu: “Hà Thành thơm nắng phố hoa/ Hà Nội ngát thơm những mùa tháng tám/ Cúc vàng hồng thơm ly tím sắc hương/ Thương những người đàn bà/ Gánh mùa thu vào phố” (tr 72). Phương Thảo còn là người mê hội họa, nên thơ chị giàu màu sắc? Bức tranh về Hà Nội hiện lên thật đẹp, nhất là những khúc ca lục bát viết theo lối ngắt dòng:“Giêng hai/ Hây hẩy/ Tơ non/ Bao tinh khôi/ Vẫn như còn/ Phôi thai…Đào xinh/ E ấp/ Trang đài/ Vẫn còn ghen/ Với sắc mai/ Rực vàng” (tr 97). Vốn mơ mộng, Phương Thảo yêu cái đẹp, rất yêu các loài hoa, nhất là hoa sen. Cảm hứng về sen xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của chị. Trường ca có nhiều câu thơ rất ấn tượng về hoa sen: “Sen muộn/ Sen chờ người hái trăng lên/ Mắt đêm thăm thẳm lụa mềm như tơ…/ Sen đợi người thả câu thơ/ Xập xòe lá biếc ơ hờ bung biêng” (tr 134). Những câu thơ đọc lên, cảnh và tình như hòa quyện bởi vần điệu, hình ảnh cứ xoắn quyện hài hòa.
Bên cạnh đặc sắc về nội dung tư tưởng, thiên trường ca có nhiều thành công về nghệ thuật. Với 12 chương được phân thành 81 đoản khúc, tất cả viết theo lối cách tân qua nhiều thể loại: thơ tự do, thơ 1, 2,3; lục bát và nhiều đoản khúc thơ văn xuôi. Mỗi mảng thơ đều có những đoản khúc ca hay, hình ảnh và tứ thơ đôi khi đạt tới thăng hoa trong cảm xúc. Chẳng hạn như: “Tôi bay dọc triền sông. Một ngày đầy gió. Ngắm sông Hồng nằm thở. Bình minh đã rực hồng. Sông mùa này thật trong. Hà Nội đã vào thu! Gió chải tóc ven sông. Hoa dại nở tím hồng. Chờ một mùa hoa cải. Nở rực vàng bên sông… Bóng thiếu phụ chờ chồng. Giọt giọt buồn đợi mong…” (tr 172).
Lý do khác khiến tập trường ca được yêu thích còn bởi tác giả có những câu thơ độc lạ và rất táo bạo như: “Khi ánh sáng và bóng tối giao hoan/ Cây cọ vẽ rung ngân!” (tr 72); “Cầu Thê Húc cong như dấu hỏi/ Đỏ những dấu môi” (tr 73) hay “Giọt giọt dương cầm” (tr 90). Bản trường ca khép lại bằng những câu thơ về dòng sông nhưng ở tầm khái quát hơn: “Hà Nội có sông Hồng/ Giọt giọt sông mẹ chảy vào lòng tôi/ Dâng dâng mênh mang mát rượi/ Tràn dâng sóng nước cuộc đời/ Một đời sông là muôn vạn kiếp người” (tr 182).
Tác giả chia sẻ: trường ca Giọt giọt đêm Hà Nội được chị bắt đầu viết từ mười năm trước, đến bây giờ mới hoàn thành. Lý do chị viết là bởi “Hà Nội của tôi! Hà Nội của bạn! Hà Nội của tất cả chúng ta. Bốn mấy năm tôi đã sống và trưởng thành trên mảnh đất thủ đô yêu dấu. Dẫu ai có nói gì đi nữa thì Hà Nội đã là máu thịt của tôi… Tôi mang ơn mảnh đất này”. Cảm ơn tác nhà thơ đã nói hộ cảm xúc, suy nghĩ của mỗi người với Hà Nội mến yêu, Hà Nội – thành phố Vì Hòa bình rất đỗi tự hào,/.
N.T.T
GIỌT GIỌT ĐÊM HÀ NỘI !
Phương Thảo
Tên tập trường ca thứ tư của tôi. Nghĩ mãi, nghĩ mãi, đã nghĩ đến vài ba cái tên khác, cuối cùng tôi đã quyết định chọn cái tên này. Chầm chậm và ngân nga một chút. Đọc từng phần riêng lẻ cũng không sao. Khi người ta đã lên ông bà, cũng cần lắm sự an nhiên, chậm rãi. Sống chậm lại và suy ngẫm nhiều hơn! Chắc người cao tuổi ít ngủ vì thích đêm hơn ngày “ đêm thấy ta là thác đổ”( Trịnh Công Sơn).
Hà Nội của tôi! Hà Nội của bạn! Hà Nội của tất cả chúng ta. Bốn mấy năm tôi đã sống và trưởng thành trên mảnh đất thủ đô yêu dấu. Dẫu ai có nói gì đi nữa thì Hà Nội đã là máu thịt của tôi. Vui, buồn, trăn trở từ nơi đây và đau khổ, thất vọng hay hạnh phúc cũng từ nơi này. Viết về Hà Nội với tôi giống như một sự thôi thúc sâu thẳm từ bấy lâu nay. Tôi đã từng có 2 tập tản văn, tùy bút viết về Hà Nội, đó là HÀ NỘI DẤU YÊU- NXB HNV 2012 và NHỮNG BÚP GIÓ TÂY HỒ - NXB Hồng Đức 2014. ( Cứ sau mỗi giáp thì in một cuốn về Hà Nội ) ! Tôi thấy như thế vẫn chưa đủ. Tôi mang ơn mảnh đất này.
Đây là cuốn sách tôi viết kéo dài nhất và lâu nhất, mỗi năm lại thêm vào một chút và bỏ đi một chút. Không giống như các cuốn thơ trường ca khác, tôi thường viết rất nhanh. Trường ca “Giọt giọt đêm Hà Nội “ đã được tôi bắt đầu viết từ thập kỷ trước, có bài từ năm 2010-2012, viết từ dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long 2010. Đến bây giờ, Hà Nội mùa thu 2024 đang về, tôi mới hoàn thành. Suốt cả mấy tháng qua, tôi ngồi cặm cụi đọc và sửa, cho đến mờ hết cả mắt, chủ yếu là cắt bớt đi một số chương, đoạn. Mà cắt chỗ nào cũng thấy tiếc nhưng vẫn phải cắt, vì sợ dài quá. Chỉ để cuốn sách dưới 200 trang, cho vừa tay mình và vừa tay người đọc !
Trường ca gồm 81 khúc với kết cấu 12 chương. Khởi nguồn từ mênh mang dòng sông Hồng ( sông Mẹ) với bao trang sử của Hà Nội và kết thúc cũng là chương tôi viết về nơi đầu nguồn dòng sông. Nơi ấy là miền biên viễn Lào Cai- Quê hương tuổi thơ tôi. Trầm tích sông Hồng là những vẻ đẹp văn hóa, lịch sử được kết tinh từ bao nhiêu nước mắt, mồ hôi và máu của cha ông ta. Hà Nội đã có biết bao tinh hoa và hồn cốt thắm đượm ở đó. Tôi đã cố gắng viết dù tự biết khả năng tư duy so với bể kiến thức lịch sử còn khá hạn hẹp. Tuy nhiên, cũng có nhiều lúc thăng hoa, tâm hồn bay bay và phải tự tiết chế mình lại, he he. Đó là chương viết về sông Hồng, ca trù, hoa Hà Nội, giấc sen Tây Hồ, giọt giọt dương cầm và đàn bà thơ vẽ tranh…
Hà Nội có biết bao là vẻ đẹp và nét tinh hoa cần được nâng niu, gìn giữ. Viết về Hà Nội ra sao, viết như thế nào, chính là một thách thức cho người cầm bút. Đó không chỉ là niềm vui, sự trăn trở mà còn là rất nhiều niềm đau, những tháng năm gian khó, biết bao những kiếp đời cần lao và nhiều nuối tiếc, cùng những nỗi buồn sâu thẳm … Tôi muốn lưu giữ những vẻ đẹp tinh thần của Hà Nội qua nhiều nét đẹp văn hóa riêng có, mang phong vị Hà Nội.
Cuốn sách sẽ ra mắt bạn bè trong tháng 10. 2024 trong dịp chào mừng 70 năm ngày Giải phóng Thủ đô ! Trân trọng cảm ơn Nhà xuất bản Hội Nhà văn, BBT và tân giám đốc Nguyễn Thúy Hằng đã cấp phép. Tôi đã chọn bìa màu đen thay cho màu xanh, dù thích cả hai màu đen và xanh. Mùa thu Hà Nội đang về, bạn có muốn ngồi thưởng thức cốm sen và nhâm nhi từng khúc “ Giọt giọt đêm Hà Nội” hay không ?
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn