CAO BÁ QUÁT – Niềm cô đơn kiêu hãnh

Thứ năm - 25/08/2022 14:45
( Về bài thơ chữ Hán Sa hành đoản ca )
Cao Bá Quát (1809   1855)
Cao Bá Quát (1809 1855)

                                                                        Nhà thơ, nhà phê bình vh Trần Trung

   Chu Thần-Cao Bá Quát, một hiện tượng hiếm quí trong thơ Trung đại. Mà, có lẽ cho đến nay, người đời vẫn chưa đánh giá một cách sâu sắc, đích thực về ông-nhất là mảng thơ Hán tự đặc biệt phong phú, nổi bật của nhà thơ họ Cao.

   Nếu gọi ra điệu hồn riêng trong thơ chữ Hán của Cao bá Quát, có thể khái quát trong mấy chữ này chăng: Một hồn thơ phóng khoáng, đôn hậu và cũng đầy kiêu hãnh, sâu sắc.

   Với Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên cát)-Thi phẩm đặc sắc, trong chương trình ngữ văn lớp 11( Sgk Ngữ văn 11, từ năm học 2007), Cao Bá Quát thực sự đã kết đọng trong lòng độc giả những cảm nhận khó quên về một Người và cũng là một Lớp-Người: Nhà Nho tài tử-Những kẻ sỹ, nghệ sỹ mang tình yêu chân thành đến mức tôn thờ Cái-Đẹp: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một đời (Ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai).

   Những Kẻ sỹ-Nghệ sỹ, chân thành và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên nhiên mà giãi bày tâm nguyện: “Bất kiến ba đào tráng/ An tri vạn lí tâm” (Nếu không thấy được sóng hung/Làm sao biết được tấc lòng muôn phương).

   Đứng ở góc độ người dạy, muốn thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản ca”, tôi muốn nhấn tới một điều cơ bản và thiết thực trong giảng dạy.Đó là, giúp học sinh nắm bắt đời và thơ của thi sỹ họ Cao-Tất nhiên, từ đó cần chỉ ra nét riêng, điệu riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế bức xúc của một thi nhân trước bao điều bất công, ngang trái; Trước bao điều thực giả hỗn độn giữa sa mạc-cuộc đời! Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản ngã, bản lĩnh của Cao Bá Quát. Nhà thơ họ Cao đã chọn hình thức biểu hiện của thơ ngũ ngôn, phù hợp với giọng điệu tâm tình cho những câu thơ khơi mở:
               “Trường sa phục trường sa
                Nhật nhập hành vi dĩ
              Khách tử lệ giao lạc”
            ( Bãi cát dài lại bãi cát dài
             Đi một bước như lùi một bước.
             Mặt trời đã lặn chưa dừng được
             Lữ khách trên đường nước mắt rơi)

    Những câu thơ đầu của “Sa hành đoản ca”, mở ra một hiện trạng, một cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật trữ tình( Khách tử). Không gian, thời gian từ những câu thơ trên như đe dọa, như dồn lữ khách tới cái bi thương của hoàn cảnh: ngày sắp tàn rồi, mà trước mắt nhìn và tâm thức, vẫn trải mở dằng dặc, mênh mang ngỡ đến khôn cùng cát và cát ( Trường sa phục trường sa). Thực cảnh bãi cát dài ấy, đem đến cảm giác thật rùng mình, choáng ngợp và bao phủ-Đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh bãi cát dài vì thế, có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị” ( Sách giáo khoa lớp 11-Tập 1, trang 40). Thực ra, tôi vẫn chưa thật nhất trí với cách cảm nhận có phần giản đơn và “thật thà” như vậy !?

   Hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao, thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động: Khách tử lệ giao lạc ( Lữ khách trên đường nước mắt rơi).

   Từ hình ảnh về con người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát mênh mông-Biển cát cuộc đời, (tất nhiên hình ảnh trường sa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ-tượng trưng), giúp cho bài thơ của Cao Bá Quát, lại mở tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và suy tư.

   Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào tích xưa-“Ông tiên ngủ kĩ” để gửi gắm sự sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người :

          Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông
          Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng
          ( Anh không học được tiên ông có phép ngủ kĩ
           Cứ trèo non lội nước mãi,bao giờ cho hết ta oán)
   Về hình thức và giọng điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “Tiên trách kỉ”, “Tự trách kỉ”. Đọc và ngẫm kĩ, lại hóa ra lời phản ứng quyết liệt của Kẻ sỹ-Thi nhân giầu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “Ông tiên ngủ kĩ”, để mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời-nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có !), để rồi nhà thơ chuyển sang một góc nhìn hiện thực-hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người:
             Cổ lai danh lợi nhân
             Bôn tẩu lộ đồ trung
            Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu
            Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng
            ( Xưa nay phường danh lợi
             Tất tả trên đường đời
             Đầu gió hơi men thơm quán rượu
             Người say vô số, tỉnh bao người ?)

    Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:

     Phần đông con người-tầm thường, mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen. Thế nên,tự cổ chí kim, bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi: Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời
     Cũng chính vì ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ mĩ tửu dậy đưa hương từ đời, từ tửu điếm-Nhân sinh:
          Đầu gió hơi men thơm quán rượu
          Người say vô số, tỉnh bao người

      Những câu thơ của Cao tiên sinh, như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh. Nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người không muốn và không thể tan hòa trong đám chúng sinh tầm thường mưu cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những danh lợi nhân, nhà thơ-Nhà Nho tài tử, đã tạo nên thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ Con người-bản thể của kẻ sỹ chân chính.

   Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên một sự thực mang tính qui luật: Người tỉnh trên cõi thế, giữa thời tao loạn, luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn ! Cô đơn nên mới vất vưởng, khốn khổ trên Sa-Mạc-Đời mà cũng là hoang mạc của thân phận.

   Tứ thơ của Sa hành đoản ca- vận động đến những câu thơ cuối bài, thực sự chất chứa đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng người:
         Trường sa trường sa nại cừ hà
        ( Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây ?)
   Một câu thơ, một câu hỏi-Tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt, thật nhiều ám ảnh, ghê rợn:Thản lộ mang mang úy lộ đa ( Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt !)
   Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát, khởi phát tự lòng người, thật lạ !
          Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
         ( Hãy nghe ta hát khúc đường cùng)
      Cái hay và ấn tượng trong những con chữ của Cao tiên sinh là ở chỗ : Nhà thơ dùng chữ Ca (hát) chứ không dung chữ Thuyết (nói). Thế nên, không thể Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết ( hãy nghe ta nói lời đường cùng).

   Nỗi bi phẫn,u uất trong lòng, làm sao chỉ giải tỏa bằng lời nói thường tình ? Phải cuồng ca, sảng ca-những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm kiêu hãnh khôn cùng ! Khúc ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm hứng ! Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát…phải biết tìm giải thoát cho số phận:

           Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
          Nam sơn chi nam ba vạn cấp
           (Phía bắc núi bắc núi muôn trùng
             Phía nam núi Nam sóng muôn đợt)
       Nhà thơ họ Cao chợt tìm đến mà hạ bút kết lại Sa hành đoản ca trong một câu thơ thật lạ. Và, cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở tầm cảm xúc và suy tư cho toàn bộ thi phẩm. Tứ thơ cũng đột khởi dâng trào từ hình thức câu nghi vấn :
   Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
   (Anh còn đứng làm chi trên bãi cát ?)
   Bài thơ khép lại bằng câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại đánh thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát, con đường giải thoát cho số phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời-Cao tiên sinh tìm đến và kiêu hãnh giữa thiên nhiên khoáng đạt, vĩnh hằng như tâm sự của ông trong một bài thơ chữ Hán khác-Quá Dục Thúy sơn ( Qua núi Dục Thúy) :
           Thiên địa hữu tư sơn
           Vạn cổ hữu tư tự
           Phong cảnh dĩ kì tuyệt
           Nhi ngã diệc lai thử
           (Trời đất có núi ấy
            Muôn thủa có chùa này
            Phong cảnh đã kì tuyệt
            Lại thêm Ta đến đây)
 

Hà Nội, Tháng tám-2022.

  

Nguồn tin: HNV

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây