Những giờ phút BÁC HỒ VIẾT TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Thứ năm - 31/08/2023 19:51
Đây là những giờ phút sôi động và khẩn trương chưa từng có của cả dân tộc. Ngày 13 tháng 8 vừa có tin Nhật đầu hàng đồng minh thì 11 giờ đêm, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ mệnh lệnh khởi nghĩa cho nhân dân và bộ đội.
Những giờ phút BÁC HỒ VIẾT TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Và:
Ngày 14/8/1945: Hôi nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Bác Hồ vừa dứt cơn sốt vẫn đến họp. Người nói: “Cơ hội rất tốt cho ta giành Độc lập đã tới”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945: Đại hội đại biểu quốc dân khai mạc ở Tân Trào. Ban tổ chức giới thiệu Bác là cụ Hồ Chí Minh, một lão thành cách mạng. Nhiều đại biểu xúc động kháo nhau, đúng là cụ Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 17/8/1945: Sáng hôm đó Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân ở trước đình Tân Trào. Đại hội bầu Bác là Chủ tịch Ủy ban giải phóng dân tộc. Người ra lời kêu gọi nhân dân tổng khởi nghĩa. Suốt ngày 17 và 18, các cuộc mít tinh biểu tình diễn ra nhiều nơi trong thành phố Hà Nội.
Ngày 19/8/1945: Cờ đỏ sao vàng rợp trời Hà Nội. Một cuộc mít tinh khổng lồ diễn ra tại Nhà hát Thành phố. Cả Hà Nội về tay nhân dân.
Ngày 23/8/1945: Huế diễn ra biểu tình lớn. Quân khởi nghĩa chiếm trụ sở của Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim. Bảo Đại thoái vị.
Ngày 30/8/1945: Bảo Đại mặc Hoàng bào, đọc một bài diễn văn. Ông đã tuyên bố trước quốc dân, đồng bào: “Tôi muốn làm công dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”. Và, trao cho Chính phủ Cách mạng chiếc ấn vàng 10 kilôgam, thanh kiếm chuôi lạm ngọc bích tượng trương cho quyền lực nhà vua.
Ở Sài Gòn, ngày 24 tháng 8 năm 1945, hồi 18 giờ, Ủy ban khởi nghĩa phát lệnh khởi nghĩa. Sau 4 tiếng, một làn sóng sôi sục của quần chúng cách mạng trào dâng, chiếm kho bạc, nhà máy điện, nhà máy nước, Sở Bưu điện, các bốt cảnh sát, Dinh Thống đốc cũng về tay nhân dân. Ngày 25 tháng 8, một cuộc tuần hành vũ trang vĩ đại của hơn một triệu đồng bào biểu dương sức mạnh của quần chúng Cách mạng, ủng hộ chính quyên mới. Trong vòng 12 ngày, Tổng khởi nghĩa cả nước thành công. Hơn 80 mươi năm nô lệ dưới ách thực dân và hàng nghìn năm dưới chế độ quân chủ đã bị cơn bão táp Cách mạng quét sạch.
          Trong  hào khí đầy sôi động của cả nước, Bác từ chiến khu về Hà Nội. Ngày 25/8/1945, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Võ Nguyên Giáp đón Bác về nội thành, đưa Bác đến ở nhà số 48 Hàng Ngang. Theo cuốn “Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (NXB Sự thật, Hà Nội, 1975), ngày 26/8/1945 Bác về đến Hà Nội. Trong phiên họp đầu tiên ở Hà Nội do Bác chủ tọa, Ban Thường vụ Trung ương  đã quyết định phải sớm công bố danh sách Chính phủ lâm thời. Ngày ra mắt của Chính phủ cũng là ngày chính thức tuyên bố độc lập. Bác được cử viết “Tuyên ngôn độc lập”. Ngay sau phiên họp đó, tại ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang thuộc quận Hoàn Kiếm Hà Nội, Bác ngồi viết “Tuyên ngôn độc lập”. Ngôi nhà này của ông Trịnh Văn Bô - một thương gia yêu nước, một trong những cơ sở đáng tin cậy của nội thành. Phòng Bác viết bản “Tuyên ngôn độc lập” vốn là một phòng ăn và tiếp khách của gia đình. Người ngồi viết trên một cái bàn tròn. Chiếc máy chữ của Người đặt trên một cái bàn vuông ở buồng bên cạnh. Người vừa viết vừa đánh máy. Mặc dù, sau một chuyến đi bộ từ Tân Trào về, Người rất mệt nhưng Người vẫn mải miết làm việc để kịp thông qua Thường vụ Trung ương và trước những cộng sự của mình trước khi đọc tại quảng trường Ba Đình sáng 02/9/1945. Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: “Trong căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng của ngôi nhà sâu thẳm, nằm giữa một trong ba mươi sáu phố phường của Hà Nội, Bác ngồi làm việc, khi thì viết, khi thì đánh máy”. Những người trong gia đình không biết Bác. Họ chỉ thấy ông cụ có cặp mắt sáng, chiếc áo nâu bạc thường để hở khuy ngực, hay hút thuốc lá, ngồi cặm cụi viết gì đó. Mỗi lần họ tới hỏi cụ có cần gì, cụ chỉ quay lại mỉm cười, trò chuyện đôi câu . Lần nào cụ cũng nói không có gì cần phải giúp đỡ . Họ không thể ngờ rằng họ đang được chứng kiến những giờ phút lịch sử và được ngắm vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Tuyên ngôn Độc lập được viết trong không khí “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”, được viết trong hào khí cách mạng hừng hực từ Bắc chí Nam. Song, với nhãn quan chính trị sâu sắc và tầm nhìn xa rộng, Người hiểu rằng Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là để tuyên bố với quốc dân, đồng bào về nền độc lập của nước nhà mà còn là cuộc tranh luận ngầm với những kẻ đang lăm xe xâm phạm quyền độc lập của dân tộc. Lúc Người ngồi viết Tuyên ngôn Độc lập cũng là lúc thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh (vào giải giáp quân đội Nhật đã đầu hàng đồng minh) đang tiến vào Đông Dương. Ở miền Bắc, bọn Tàu - Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã chực sẵn ở biên giới để đổ quân vào nước ta. Người đã biết trước rằng: mâu thuẫn giữa Anh – Pháp – Mĩ và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mĩ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 15 tháng 8 năm 1945 - Chủ tịch Hồ Chí Minh – NXB Sự thật – Hà Nội 1970 – tr. 63). Chúng đã tung ra dư luận ăn cướp: Đông Dương là thuộc địa của Pháp. Bây giờ Đồng minh đã thắng phát xít, Đông Dương lại thuộc Pháp. Do vậy, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập , Người trích dẫn ngay bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người khen đấy là “lời nói bất hủ” . Người “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũg có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Sự “suy rộng ra” thật hợp lí hợp tình. Giáo sư Singô Sibata (Nhật) đánh giá: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của cả dân tộc”. Dáng một đòn như vậy cũng đã đủ song Người còn viết tiếp: “Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do bình đẳng về quyền lợi”. Người khảng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy Người đã dùng “gậy ông đập lưng ông ”. Dùng chính ý lẽ của Mĩ (quan thầy) và cha ông của bọn đế quốc Pháp để khóa Pháp. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Người, Người đã chỉ ra cho nhân dân thế giới thấy rõ tội ác man rợ của Pháp hơn 80 năm qua, trái với đạo lí. Và cũng chỉ ra rằng Pháp đã hai lần bán nước Việt Nam cho Nhật, Pháp không còn quyền lợi gì ở nước ta. Nhân dân ta phải bền bỉ đấu trang giành độc lập mới có. Việc Pháp quay trở lại là vô lí. Lời văn chính luận của Người gọn, lôgic và sâu sắc mạnh mẽ. Người viết: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Người còn mang hùng khí của “Nam quốc sơn hà” (Lí Thường Kiệt) và thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), mang “khí phách Trần Lê, oai vũ Quang Trung”. Chính vì vậy mà bản Tuyên ngôn đã thực sự có tác dụng to lớn. Viết Tuyên ngôn Độc lập, quả là Người đã: “…Nghe phong ba gào thét đá ghềnh” để mà vận dụng lí lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, luận cứ xác thực, chứa đựng nhiều chân lí lớn, có sức thuyết phục cao. Bản Tuyên ngôn Độc lập ấy vừa viết bắng ý chí sắt đá, vừa viết bằng niềm sung sướng tự hào. Chính Người nói: “Đó là những giờ phút sung sướng nhất của Người”.
 
Nguyễn Kim Rẫn (Suu tầm và tóm lược)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây