Truyện ngắn của Lã Vinh
Cái tin ông Khấn trở về quê cũ Lũng Giàng làm cho cả bản Nà Màn xôn xao: Già rồi quay về ở núi ốm đau thì ai trông, khéo chết lúc nào không biết .
Ông không về đấy thì đi đâu ai chia ruộng đất cho ông ! Sao không theo con cháu vào Nam cho yên phận ?
Người thì bảo: Thà ở quách đây cho xong, mỗi năm chỉ cần đục đẽo dăm bộ cày, bừa, bán cho bà con tối lửa tắt đèn cũng đủ sống qua tuổi già …
Đúng là miệng lưỡi người đời nói sao chẳng được, nhưng xem ra ai cũng động lòng thương cảm với ông, một người đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, một nửa cuộc đời gắn bó thân tình với bà con dân bản Nà Màn…
Lũng Giàng là một xóm nhỏ nằm lọt thỏm giữa bốn ngọn núi cao Phya Giàng,Phya Dèn, Phya Đen, Phya Đó, mồ hôi của đất đá bào mòn từ bốn phía dồn xuống phủ lên lòng chảo một lớp màu tơi xốp. Bảy đời nhà họ Giàng sinh sống chủ yếu nhờ trồng ngô, thuốc phiện và săn bắn hái lựợm cũng dư dật của ăn của để. Với địa thề hiểm trở cách biệt, Lũng Giàng trở thành nơi che dấu cán bộ Việt Minh hoạt động ở vùng Lục khu Hà Quảng, ăn, ở, đi lại đưa đón đều dựa vào nhà ông Khấn. Cách mạng thành công, ba anh em ông được tặng danh hiệu Gia đình có công với Nước.
Thời xây dựng Hợp tác xã, từ trên núi cao ông Khấn được di chuyển xuống vùng đồng theo con đường làm ăn tập thể, mấy năm đầu xã viên còn cùng nhau vượt đèo lên rẫy Lũng Giàng trồng ngô ,đỗ tương. Ngô ở trên lũng bắp to mượt, vàng óng dẻo thơm. Hợp tác xã phát triển lên bậc cao Lũng Giàng được khoanh vùng để chăn thả trâu bò. Ông Khấn vào đội sản xuất nông cụ sửa chữa cày, bừa. Ông lên núi tìm những cây mạy Diển phắt (Nghiến xoắn) để làm thân cày, cây mạy Sáng Bắc làm răng bừa , thứ cây dẻo dai, bền chắc, tha hồ ngâm nước vẫn không bị mục. Những chiếc cày, bừa do ông làm được dân quanh vùng ưa chuộng và bán chạy nhất chợ Nà Giàng, ranh giới giữa người Tày- Nùng nhanh chóng hoà nhập; ông Khấn nghiễm nhiên trở thành người Nà Màn , con cháu ông khai sinh đều mang tên quê quán Nà Màn .
Vào vụ nông nhàn , ông Khấn lại đưa đội của mình lên rừng khai thác cây Báng nấu rượu. Mạy Báng cùng họ với cây Móc, thân cây thẳng tắp vươn cao, lớp vỏ ngoài rất cứng, đen như gỗ mun dùng để lát sàn hay bưng vách thì chắc bền không kém gì gỗ Nghiến , bên trong lớp vỏ cứng dày 3-4 cm , là lớp ruột xôm xốp màu hổ phách, óng ánh tinh bột , chỉ việc chặt xuống bổ ra , moi lấy phần ruột băm nhỏ như băm chuối lợn ,đào hố dưới đất ủ cho lên men để nấu rượu ,mỗi cây được khoảng 2 chục lít . Rượụ báng thơm mùi thảo mộc, uống một bát đã ngà ngà say ,mỗi lần nấu rượu báng vui như ngày hội bất kể người lạ, người quen đi qua đều được mời nếm thử cái hương vị độc đáo của cây rừng. Bã rượu Báng đắp đống để ngoài trời cho trẻ con tè vào vài lần sẽ tự nhiên sinh ra vô số Nhộng Báng, mỗi con to gần đầu ngón tay út, trắng nõn mỡ màng ,thơm ngon đậm đà không khác gì nhộng Ong
Ruột Báng băm nhỏ cho vào Héc vài( chảo trâu) đun sôi mấy ngày liền giống như nấu xương ngào cao Hổ cốt , dùng Ngàm cảo ( dụng cụ làm bằng chạc cây có 2-3 ngạnh ) khuấy đảo cho dừ ,đến độ tan ra thành nước, đến khi cô lại được thứ bột trắng mịn màng tinh khiết. Bột báng dùng để nấu cháo dinh dưỡng cho trẻ em ,phụ nữ sinh con, để xào thịt Trâu ,Bò, Ngựa, thú rừng, xào Ngó Sen, củ Đậu … đều tuyệt vời, thịt Trâu,Bò già dai đến mấy cũng trở nên mềm dẻo, nhơn nhớt ngậy mùi thơm ngon hơn bất cứ gia vị nào khác …
Nấu rượu hay làm bột Báng đều cần rất nhiều nưóc. Nhưng tạo hoá dường như đã có ý sắp đặt, ở gần nền nhà cũ của ông Khấn bên chân núi có cái Ang đá nước tự nhiên rộng bằng nửa cái giường cá nhân, ăn sâu vào vách đá; những mạch nước li ti chảy quanh năm không cạn. Cứ múc đi bao nhiêu nước lại tự nhiên dâng đầy như cũ, khắp vùng lục khu chỉ nơi nào có mỏ nước mới có thể nấu rượu và làm bột báng
Những đêm ở rừng, ông thường chia đội làm hai nhóm ,một nửa trông lán đun lửa nấu bột, còn lại theo ông đi săn. Ở Ngàm Kéo ngay cửa rừng có cây mạy Lầu rỗng ruột, to cỡ 3-4 ngừòi ôm , cuối thu sang đông quả mác Lầu tím như Nho rừng ngọt lịm, là thức ăn khoái khẩu bậc nhất của con Cầy Hương , chúng làm ổ ngay trong thân cây rỗng, chập tối mới leo nhanh như Sóc lên ngọn kiếm ăn . Thợ săn phải nấp thật kín , phân công mỗi tay súng ngắm sẵn một điểm bắn, cách nhau tầm 2 m dọc theo thân cây; đợi chúng ăn no nê rồi lặc lè bò xuống mới đồng loạt bật đèn khai hoả, mỗi vòng đạn súng Hoả Mai toả rộng bằng cái nia sàng gạo, nên ít khi bị chật. Nhưng cái giống ở rừng vốn rất nhanh nhẹn và dai sức, dù có trúng đến 4-5 viên Mác xá( xỉ gang) to bằng viên bi xe đạp, thì khi rơi xuống chúng vẫn lao đi vài chục mét ,chứ không bao giờ chịu chết tại chỗ .Cuộc tìm kiếm dưới gốc cây kéo dài hết đêm đến sáng , có hôm được đến hai, ba con. Người săn Cầy Hương cái tai phải thật thính, nghe và biết được khi nào nó xuống đúng tầm ,nếu bật đèn sớm coi như hỏng ăn .
Còn săn Khỉ thì nhàn, cứ chiều xuống chọn Cây Báng nào mới trổ buồng non ,bí mật chiếm lấy điểm cao ngang tầm. Khỉ ăn quả Báng rào rào, thể nào cũng hạ được 2-3 con. Khoảng 2 chục bộ xương lại đủ nấu một mẻ cao nguyên chất …Hai ba tháng ở rừng thịt thú, rau xanh, cháo Báng, lại thêm miếng Cao xương bồi bổ, đám thợ ông nào cũng dẻo dai săn chắc, hồng hào khoẻ mạnh
Mỗi lần đội quân đi rừng về , bà con dân bản lại kéo nhau đi đón ở Ngàm Kéo vui mừng say sưa , những bát rượu pha Cao xương chuyển tay xoay vòng uống cạn . Món quà của Rừng đủ chia cho mọi nhà, ít nhất cũng một chén đầy bột Báng, một lát Cao xương, hay miếng thịt hun khô đượm màu khói bếp , bà con Nà Màn gọi đấy là Lộc rừng
Chiến sự tháng 2 năm 79 .Theo lệnh sơ tán cả làng Nà Màn chạy lui về phía sau, không ngờ chưa đầy hai ngày ,tuyến sau đã trở thành chiến trận… Ông Khấn bàn với đội trưởng đưa bà con lộn ngược trở lại Lũng Giàng, các cơ quan của xã và một số cán bộ huyện cũng dần theo về đấy. Dãy núi Lũng Giàng như thế bờm ngựa chạy dài cả cây số, thấp dần xuống đến An Mạ . Hàng ngày đám thanh niên luồn theo dông núi, ra gò Ngàm Tắm nhô cao phía sau làng Nà Màn, nhìn xuống toàn cảnh chợ Nà Giàng rõ như lòng bàn tay . Mọi động thái của quân thù đều diễn ra trước mắt , mấy lần bọn lính tìm đường lên núi, đến lưng chừng nhìn lên hai bên vách núi cao sừng sững , những chỏm đá tai mèo nhấp nhô như thiên binh vạn mã. Thấy Ngàm Kéo thâm u bí hiểm bọn chúng túm lại lại dưới gốc cây Nghiến cổ thụ , bắn vài loạt đạn rồi quay về . Ông Khấn bảo: Thời Pháp cũng vậy, mỗi lần đánh hơi thấy cán bộ đi về , bọn lính Dõng lại mò lên, nhưng cứ đến chỗ gốc cây Nghiến là lùi lại , không dám vượt qua Ngàm Kéo, Lũng Giàng trải qua bao phen giặc dã, loạn lạc vẫn bình yên vô sự…
Thế nhưng mọi thứ bị đảo lộn khi cơ chế đổi thay, đất đai trở về chủ cũ, ruộng ai người ấy làm, cả cái nền nhà người ta cũng đòi lại. Đã bao đêm ông Khấn đem chai rượu sang nhà đội trưởng Lường nói chuyện đến tận khuya , xin nhường cho cái nền nhà đang ở . Cùng tuổi già cả với nhau, ông Lường cũng chỉ biết thở dài: Nhà tôi mang tiếng dân ngụ cư đất ruộng 7-8 ngàn mét , nhưng nay chia ra 4 thằng con trai , mỗi đứa chỉ còn 2000 mét, ông về đây ở gần tôi đã 30 năm, ta coi nhau như Lạo tồng (kết nghĩa). Nhưng thằng Cán con út nhà tôi đòi ra ở riêng, Sáu anh chị em nó đều bảo chỉ có chỗ ông đang ở là đất làm nhà, vợ chồng tôi cũng không còn cách nào khác …
Suốt một năm trời khắc khoải lo âu , nhà ông Khấn bàn đi bàn lại, thằng Khén con trai cả từng có 7 năm đi bộ đội ở chiến trường Tây Nguyên thì nhất quyết đi Miền Nam, ba đứa em hùa nhau: Đã thế thì di cư một thể cho bõ , nhân tiện tránh xa cái nạn “ Luổn Hác pác pi” nơi vùng đất biên viễn … Nghe các con nói, Ông Khấn ngậm ngùi cay đắng nghĩ lại: Thời ấy mình hạ sơn là theo phong trào, chẳng kịp suy nghĩ tính toán gì chuyện mua bán ruộng đất . Bây giờ Nà Màn chả có tấc đất nào của ông … Thế sự ra nông nỗi này, đến ông bạn Lão Tồng cũng không giúp gì được ,con cháu chẳng đứa nào chịu theo ông trở về quê cũ. Bọn trẻ nói cũng có lý, cuộc sống của chúng nó là hứớng về phía trước, còn ông thì nặng lòng hoài niệm cố hương, nơi cội nguồn gốc rẽ , đất đai tổ tiên , mổ mả ông bà bao đời gắn bó. Ai trông nom giữ gìn ? Chẳng lẽ cứ lui dần, lui mãi !... Cuối cùng ông hạ giọng chắc như đóng cột: Không! Các con muốn đi cứ đi, còn bố ở lại sống chết với mảnh đất này , bố tuy già nhưng vẫn đủ sức kiếm sống. Các con đi rồi, ông Khấn lặng lẽ trở lại Lũng Giàng dựng một túp lều tranh trên nên đất cũ, ken bằng thân cây Báng, bên cạnh Ang đá núớc trong veo, phủ kín rêu xanh dòng nước li ti vẫn chảy bốn mùa…
Hàng ngày bọn trẻ chăn bò vẫn đến chỗ ông nướng ngô ,khoai, sắn, ông dạy chúng cách đan rọ mõm trâu bò ,lồng gà, rổ rá… chúng giúp ông đào hố trồng cây Báng, một công việc thường ngày ông đã đổ biết bao mồ hôi công sức từ khi trở về quê cũ. Ông bảo : Thời hợp tác đội của ông đã chặt hàng ngàn cây Báng , nay ông phải trồng để lại trả vốn cho rừng . Một cây Báng hơn 10 năm tuổi mới ra buồng, có ba buồng trở lên thì ruột của nó mới nấu được rượu và bột Báng. Cái nợ rừng của ông còn lớn lắm…
Thấm thoát mười lăm năm trôi qua , Rừng Báng của ông Khấn đã phủ xanh cả Lũng Giàng; đàn khỉ một thời vắng bóng, nay lại lũ lượt trở về kheng khéc quanh nhà, đối với ông chúng bỗng nhiên trở thành người bạn thân thiết
Vào một buổi chiều thu, bọn trẻ chăn bò hớt hải chạy về vừa đến đầu làng đã đồng thanh hét to: ông Khấn chết rồi … Ông Khẩn chết rồi ồi ồi …! Cả bản Nà Màn nhốn nháo kéo nhau lên núi. Bên Ang đá dưới gốc cây Si già cổ thụ ,ông Khấn trong tư thế nửa nằm nửa ngồi , gối đầu lên cái Rương kè ( dụng cụ đan bằng lạt hình trụ đeo ở thắt lưng thay cho cái nõ dắt dao ) một chân co gếch lên, một chân duỗi , chiếc khăn mặt còn vắt trên vai , đôi mắt khép hờ như đang trong giấc mơ… Vuốt mắt cho ông bạn Lạo tồng xong, ông Lường đứng dậy nói với mọi người :Có lẽ ông đi rừng về mệt, duỗi lưng nằm nghỉ rồi cứ thể lịm đi… Cái chết đến với ông thật nhẹ nhàng, thanh tịnh, 86 (Phát lộc ) rồi, cái tuổi ông đi cũng đẹp…
Người ta đem thi thể ông về túp lều dựng bằng thân cây Báng. Thu dọn bàn thờ , ông Lường phát hiện thấy tờ lịch cũ gấp gọn đặt dưới chân bát hương ghi dòng chữ đã mờ: Hãy để tôi nằm lại với ngôi nhà này... Hai ngày sau ba đứa con ở trong Nam mới ra đến nơi, khóc gào thảm thiết: Pá ơi sao lại khổ đến nông nỗi này, để chúng con ở xa thành kẻ bất hiếu …
Đám tang ông Khấn được Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân xã và bà con Nà Màn đứng ra lo liệu với đầy đủ nghi thức, có cả đại diện phòng Lao động thương binh xã hội huyện đến chia buồn phúng viếng … Công việc xong xuôi , thằng Khén con trai cả lặng lẽ dỡ tấm bắng Có công với Nứớc, được ông lồng cẩn thận trong khung kính, xin phép chính quyền và bà con dân bản đem theo về Miền Nam.
Vu lan năm Quý Mão -2023
L.V