Hồng Huyên - như tôi từng biết
Mai Vũ - Chi hội Nhà văn Công an
Nói gì về người nghệ sĩ này đây? Thật khó, bởi Hồng Huyên có tới 3, 4 chức danh nghệ sĩ. Họa sĩ đích thực - Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, nhà văn đích thực - Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Hồng Huyên còn làm thơ và gần đây còn bước sang lĩnh vực gốm nữa.
Là Họa sĩ hội viên, Hồng Huyên đã thể hiện được vai trò hội viên của mình. Chị thường xuyên tham gia các cuộc triển lãm phục vụ các sự kiện chính trị, xã hội của đất nước.
Tranh Hồng Huyên tươi sáng về màu, hình chuẩn. Đó là hai yếu tố cơ bản làm nên một họa sĩ và định danh vị trí, giá trị của họ. Chị dành tâm hồn mình cho những con người và phụ nữ miền núi với sự yêu thương và cảm thông cùng giới. Trong tranh chị, thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên với vẻ tinh khôi đầy quyến rũ. Thật yêu sao những cô gái Thái, H’Mông điệu đà du xuân trong sắc phục dân tộc, đẹp như những bông hoa rừng, cất tiếng đàn, tiếng khèn, khiến người xem như văng vẳng bên tai. Nghệ thuật thể hiện cái thật mà lại không thật, nói cái có mà lại không có, đó chính là ranh giới của tài năng.
Giữa hội họa và văn chương, thật khó nói chị dành cho cái nào nhiều hơn!
“Người đàn bà trong giông bão” này sở hữu ba tác phẩm đã đến tay bạn đọc. Đó là: “Chỉ tình yêu còn lại” - tiểu thuyết, “Mùa sen nở” và “Trước mặt là cả một khoảng trời” - tập truyện ngắn.
Văn chương như con người Hồng Huyên. Chị trải lòng mình về quê hương Hà Tây, nơi chị sinh ra và trải qua thời thơ ấu. Nơi có những triền đê hoa cải vàng ngập, làm xôn xao lòng người. Nơi có những con đường quê cong hình con tôm, gợi nhớ biết bao những người xa xứ. Vùng quê ấy có biết bao con người đi qua chiến tranh mà bi kịch còn lại phải gánh chịu cho đến tận giờ. Ở nơi ấy có những chàng trai ra đi làm nghĩa vụ non sông, bỏ lại làng mối tình quê đẹp, để rồi khi trở về đã lỡ duyên, nhưng ngòi bút Hồng Huyên nhân hậu, họ đã kịp hàn gắn lại và hạnh phúc đã đến với họ dù hạnh phúc muộn màng. Đó là “Hạnh phúc người lái đò”. Truyện Hồng Huyên không rắm rối, không có cao trào, không đi vào những tình tiết gây cấn. Chị không dựng truyền, khắc họa nhân vật mà dùng hình thức tường thuật, khách quan như một ống kính, ghi vào những sự kiện của đời sống. Tác giả không nhảy vào cuộc để bàn luận, hay tham gia vào các sự kiện. Chị kể chuyện dung dị, tự nhiên như cuộc sống vốn là như thế. Trong tập “Mùa sen nở” của chị có những truyện hay như: Hạnh phúc người lái đò, Mùa sen nở, Trăng lạnh, Hai nàng Tiên của mẹ, Hương bồ kết. Hồng Huyên còn thử sức mình ở lĩnh vực tiểu thuyết và phải nói chị cũng thành công.
Chỉ tình yêu còn lại - chỉ bằng cái tên sách này, độc giả đã hình dung ra đối tượng phản ánh của truyện là lớp trẻ rồi. Đúng vậy! Tiểu thuyết kể câu chuyện của thời cắp sách đến trường, với bạn bè, thầy cô, những dòng lưu bút và phượng hồng nức nở. Nơi những mối tình đẹp đầu đời nảy nở và ấp ủ như một men say đưa họ vào đời. Thế rồi, ra khỏi mái trường phổ thông, họ đi muôn nơi, trưởng thành lên, hành trình theo những cung đường số phận. Có người gặp may, có người lận đận, nhưng tình yêu đã đi cùng họ theo tháng năm và sau những tổn thương, mất mát. Nó vẫn còn lại mãi mãi. Phải nói Hồng Huyên yêu cuộc đời, yêu quê hương và nhìn cuộc sống thật nhân hậu nên những trang sách của chị vô cùng ấm áp: Truyện chị thắm tươi tình yêu cuộc sống.
Văn là người, đúng vậy. Gấp cuốn sách lại, độc giả không thấy day dứt, dằn vặt, không để ngỏ những vấn đề độc giả phải suy nghĩ, tìm hiểu. Bởi tất cả đã trọn vẹn, ngọt ngào như một truyện cổ tích.
Văn chương được xem là tấm gương phản ánh tâm hồn con người. Nó thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của tác giả. Ngoài đời, Hồng Huyên gần gũi, thân ái với mọi người, thật thà đôi khi đến hồn nhiên.
Trời phú cho một gương mặt đẹp, một thân hình cao ráo, óng ả, nhưng Hồng Huyên luôn ẩn mình, giấu mình trong mọi người, cố ý không làm cho mình nổi trội. Sự khiêm nhường văn hóa này, vô hình chung lại càng làm cho chị nổi trội hơn, bạn bè càng yêu quý chị hơn. Ở đâu không có Hồng Huyên, người ta thấy thiếu một cái gì. Cuộc vui nào không có Hồng Huyên, người ta thấy nhớ. Nhớ một nụ cười tươi tưởng như vô tư, mà tận đáy lòng chất chứa bao nỗi niềm sâu kín, phảng phất đấy những nét buồn tinh tế nơi đuôi mắt.
Gần đây, Hồng Huyên còn mạnh dạn bước sang một lĩnh vực mới. Đó là gốm. Chị đã tham gia trại sáng tác gốm mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam. Tác phẩm của chị khá độc đáo, thể hiện một góc nhìn riêng mới mẻ, chắc sẽ thu hút người xem, làm họ khó bỏ qua.
Con đường nghệ thuật của Hồng Huyên đa dạng, khá thành công và còn trải rộng phía trước mặt, hứa hẹn nhiều đỉnh cao mới.
Chúc cho người nghệ sĩ tài sắc này đạt được nhiều thành công hơn nữa trên con đường nghệ thuật mà chị đã lựa chọn và dấn thân.
MAI VŨ
Thơ
KHOẢNH KHẮC
Trong không gian bao la
Chỉ có em và mùa xuân
Đan trộn với em thành hòa sắc.
Em ở trên toan bước xuống
Ta với em cùng hòa điệu mùa xuân
Em hồ hởi, từng bừng và điêu luyện
Nét uyển chuyển sắc mầu Dân tộc
Đưa ta về khoảnh khắc yêu thương
Em động viên ta trong không gian ảo mộng
Vời vợi sắc màu thế giới mênh mang
Bất chợt
Em nhảy nhanh vào toan vẽ
Mở nụ cười và ánh mắt dịu dàng
Ta quay lại thấy đoàn khách đến
Em vui mừng biểu diễn
Như hoa hậu kiêu kỳ
Những ánh mắt ngắm em và thưởng thức
Hòa niềm vui hạnh phúc nhân đôi.
XA TRƯỜNG.
Hè đi đâu mà thu đã tới
Lá gió thêm xanh sao lá lại vàng
Có phải là cây đang ủ nụ
Để nẩy chồi non báo xuân sang.
Ôi đau sao cô-vid hoành hành
Xâm lấn vườn thu, con người điêu đứng
Những trẻ thơ ấp mặt trong tường kín
Nhớ mùa hè trên phố bước tung tăng.
Ôi mùa thu vàng úa chân mây
Lá từng chiếc giạt trôi ra biển cả
Mà đơn côi như con thuyền trước gió
Bãi biển vàng xa vắng bóng em thơ.
Tiếng chim hót đơn côi trong lá
Mùa thu buồn trên phố cũ tôi đi
Sao khát khao tiếng trẻ nô đùa
Tiếng học bài mơ hồ trong gió.
Thời cô-vid sao mà tận ác thế
Đường hoang vu không một bóng người
Những trường học lặng im cánh cửa
Thế kỷ này ghi đậm nỗi nguôi ngoai.
MƯA THU
Mưa rơi lạnh lẽo thấm hồn tôi
Ngõ vắng hắt hiu chẳng bóng người
Cà fe ngồi uống lòng đắng chát
Nhớ về nơi ấy nhớ chơi vơi.
Mưa thu buồn theo suốt đời tôi
Xa xăm gửi lệ khóc nhau hoài.
Ngưu Lang - Chức Nữ ngàn xưa ấy.
Anh ở nơi nào, anh yêu ơi?
ĐÊM
Có đêm nào tròn giấc đâu anh
Thao thức bâng khuâng bao ảo vọng
Khát vọng chưa thành anh đâu biết
Con tim đau nhói một thời
Thu đã chết như bao thu khác
Ánh trăng nhòa bão tố mưa giông
Vẫn le lói qua khe cửa sổ
Như òa vào em với giấc mơ
Đêm
Chóng vắng với ánh trăng thu
Cứ lạnh lẽo sao khơi dậy thế
Như ôm cả vầng trăng
Mà vẫn thiếu tiếng anh
Đêm lại đêm
mong một ngày
Tròn giấc bên anh
TRỞ VỀ LỐI CŨ
Thu về ta nhớ đường xưa
Những chùm hoa sữa
Đang chờ đông sang
Em ấp ủ lâu nay
Mong ngày em khoe sắc
gió gieo cùng em hát
Bên bờ vai của anh.
Nắng thu ngày nhạt dần
Em bên đường khoe sắc
Sáng tỏa cả góc trời
Chắt chiu,gom góp, những tinh khôi
Nay em trở về lối cũ
Hoài niệm dưới tán chùm hoa sữa
Nhớ thương một người thủa xưa
Em khao khát,
Thấy bóng anh dưới tán chùm hoa đó
Được ngả đầu, và nghe nhịp đập tim anh
Thu đã chết như bao thu khác
Bạc trăng mơ sau trận bão mưa giông
Em ấp ủ hương thơm,và gói chặt
Để hàng ngày tỏa ngát bên em.
Truyện ngắn
Hai nàng tiên của mẹ
Minh họa của tác giả
TRĂN TRỞ
Minh họa của Tác giả
Vào mùa thu, cái nắng xiên khoai đã nhạt dần. Bầu trời không còn xanh cao như mùa hè nữa, chiều tối đám mây đã thu hút, nuốt chửng ông mặt trời dưới chân núi, phủ lên một bầu không khí ảm đạm, lạnh lẽo, những hạt sương mỏng manh rơi xuống mặt đất. Những đám khói đốt đồng giờ chỉ còn là những sợi mỏng manh đang bị gió heo may thổi bạt đi.
Chị Tẻo vừa đi làm đồng về, thấy người hơi lạnh, chị vào lấy cái áo dài tay mặc cho đỡ lạnh. Trăng đã le lói dần lên của ngày gần rằm, nó to và tỏ sáng, giúp chị cơm nước nhanh chóng cho các con.
Thằng Trường con trai cả của chị cũng đi học về muộn, vì nó còn ở lại đá bóng. Còn thằng Sơn con út của chị còn nhỏ đi học cấp một về, mệt và đói nó lên giường ngủ một giấc để đợi mẹ đi làm về, nấu cơm. Chị về nhanh chóng nấu cơm. Chị thấy thằng Trường mới cắp cặp về, chị hỏi: - Sao hôm nay con đi học về muộn thế? Chị sai Trường nhặt rau, rửa rau rồi nhanh chóng vào bếp nấu cơm.
Chị lo cơm nước cho hai con, ăn xong chúng còn phải học bài. Đàn lợn kêu inh ỏi, chị tranh thủ cho chúng ăn, rồi mới đi ăn cơm. Xong xuôi mọi việc, chị Tẻo mới ngả cái chõng tre xuống sân, nghỉ ngơi một lúc. Trong nhà hai con của chị ngồi học cho nó yên tĩnh.
Lúc này chị mới có thời gian thư giãn. Chị nhìn lên bầu trời, ánh trăng gần rằm sao nó to và sáng trong thế. Chị lẩm bẩm một mình, “thế này các cụ bảo? Năm nay đến mùa đông thì lại rét đau lắm đấy.” Chị với cái ấm nhôm cũ, rót nước vối đã ủ từ sáng ra uống. Chị ngắm nhìn kỹ lên ông trăng, chị như “thấy chú cuội, chị hằng đang ở gốc cây đa.” Những ngôi sao nhỏ vẫn mở mắt đăm đăm trên bầu trời đen kịt, nhìn xuống mặt đất, vườn cây um tùm trước sân nhà chị. Gió thổi đu đưa làm trong đám tối khu vườn lúc sáng, lúc tối, cây nghiêng ngả, làm chị thấy lành lạnh. Chị lại ngồi bấm ngày, thứ, xem tuần này thứ bẩy anh Thê chồng chị có về không.
Chị thở dài, nghĩ lại hồi trong quân đội. Chị và anh gặp nhau, cùng ở một đơn vị. Chị là y tá đi theo đơn vị anh, để cứu các chiến sĩ bị thương đang trong chiến đấu. Chị gặp anh lúc chăm sóc anh khi anh bị sốt rét rừng hành hạ người như tàu lá, môi thâm sì, rét run cầm cập. Từ đấy anh và chị yêu nhau.
Đất nước đã hòa bình. Chị và anh được ra quân. Anh và chị về lấy nhau. Lúc đấy bố vợ anh đang làm cán bộ ở Hà Nội, tiêu chuẩn nhận con vào làm chỉ được một người. Chị hy sinh, để cho chồng vào làm, còn chị về làm y tá ở xã và làm thêm ruộng cùng với mẹ chồng. Ngày tháng thoi đưa, chị đã sinh được hai con trai với anh.
Chị nghĩ: Ngày xưa khổ mà vui sướng bao nhiêu, bây giờ sao nó lại buồn đến thế.
Mỗi lần chồng về, Thê toàn gây sự với chị, rồi chê chị, nói này nói khác với chị, cho chị không biết làm ăn gì. Mỗi lần Thê về chị nấu cơm cái gì Thê cũng chê, có hôm Thê đổ cả nồi canh cá trê, nấu với dưa khú, mà chị phải đi hỏi gần khắp hết làng mới mua được. Cứ tưởng là dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ cho chồng khen. Hồi mới cưới vợ chồng vẫn chan húp xì xụp, bây giờ thì Thê chê:
- Nấu thế mà cũng ăn được à, tanh quá!
Thê toàn bắt bẻ, khiêu khích chị. Chị vẫn chịu đựng và không nói gì. Chị chỉ buồn thôi, chị sợ to tiếng hàng xóm họ thầm thì, ”chồng thỉnh thoảng mới về mà lúc nào cũng cãi nhau.” Chị đành phải chịu đựng.
Thê gây sự, rồi bắt chị ly dị với anh, bảo là sống không hợp nhau. Chị Tẻo buồn rầu đau khổ một mình, không dám thổ lộ với ai. Chị cũng biết tính chồng chị, ham địa vị, ham làm giàu. Thê rất tính toán trong việc này.Chị nhớ rõ hồi Thê được bố mới xin vào làm, Thê bảo với bố vợ, tìm mọi cách xin vào phòng cung tiêu. Thê đã tính toán, vào phòng cung tiêu mới làm ăn được. Từ đấy Thê đã làm ăn, có nhiều phi vụ bất chính, cho nên mới dẫn đến hậu quả bây giờ. Chị Tẻo nhớ đến hồi Thê và chị gặp nhau, rồi lấy nhau. Thê đối xử rất tốt với chị, rất yêu chị, quan tâm đến gia đình. Lúc chửa con so, mỗi lần thứ bẩy về, Thê lại đạp xe từ Hà Nội về, qua chợ phố động, lại mua con cá chép nhỏ cheo lủng lẳng ở ghi đông xe đạp, bảo vợ nấu cháo mà ăn để sau này con mình thông minh. Chị sinh con trai đầu lòng, nó như một niềm vui với Thê. Đến đẻ đứa thứ hai lại con trai, anh càng thấy, anh phải có trách nhiệm hơn, anh lo lắng hơn. Anh đi công tác Miền Nam ra, tiện xe cơ quan, chở ra cả chiếc tủ cũ, về cho vợ dùng. Anh càng ham kiếm tiền, để lo cho con cái. Thế mà gần đây, nó như một cú sốc đối với chị. Thê thay đổi nhanh chóng như trở bàn tay với chị.
Chị là Đảng viên lâu năm, là phó bí thư Đảng của xã, chị lăn lộn việc nhà việc xã hội và nuôi hai con, chăm sóc mẹ chồng. Chị đầu tắt, mặt tối suốt ngày, chị chẳng có thời gian nghĩ ngợi việc của mình.
Mỗi lần anh Thê về nhà, anh dày vò chị, chị cũng lờ đi để cho gia đình nó êm ấm, người ngoài nhìn vào, cứ nghĩ là chị hạnh phúc. Mỗi lần Thê về, hàng xóm lại gọi ầm lên, “Chị Tẻo ra đón chồng về kìa.”
Tẻo thở dài, hôm nay lại tối thứ sáu rồi mai lại thứ bảy, tuần này không biết Thê có về không. Chị ngồi ngoài sân nhớ lại những ngày trước, chị lúc nào cũng mong đến ngày thứ bảy, là ngày hạnh phúc nhất trong tuần, cả nhà đầy đủ trong mâm cơm. Thê về rất chiều vợ chiều con. Bây giờ dường như là trái ngược với chị, chị mong Thê đừng về để cho chị yên cái đầu, chị còn lấy sức lực để làm việc, con cái yên tĩnh học hành. Chị đang suy nghĩ thì thấy tiếng xe máy ở ngoài ngõ, lao vụt vào sân chị đang ngồi khiến chị giật mình, đó là chồng chị. Chị vội đứng dậy để Thê dựng xe vào.
Thê vào nhà thấy hai con đang học. Các con then lét chào bố. Chị Tẻo vội vàng hỏi chồng: - Sao hôm nay anh về sớm thế. Anh đi làm về rồi anh về ngay ạ. Tối muộn thế, anh để hôm sau mới về thì không, về muộn nguy hiểm lắm anh ạ.
Thê chẳng nói gì chẳng rằng. Chị Tẻo lại nói tiếp, em đi nấu cơm cho anh ăn nhé! Lúc này Thê mới trả lời nhát gừng: - “ Không ăn.” Chị thấy thái độ của chồng, như sắp có chuyện sảy ra. Chị vào chỗ các con, chị bảo: - Các con học xong chưa, muộn rồi đi ngủ, ngày mai còn dậy sớm đi học.
Chị Tẻo thu xếp mọi việc, chị cũng đi ngủ sớm. Còn Thê ngồi uống nước, gọi điện thoại. Chị Tẻo vẫn không ngủ được, chị nằm nghe Thê nói chuyện trong điện thoại. Thê cũng chẳng giấu diếm gì anh nói chuyện rất thoải mái với một cô gái nào đó, rất tình cảm, bàn cả đường đi nước bước làm ăn nữa. Chị Tẻo nghe được hết mọi chuyện. Chị buồn lắm với thái độ của chồng mình, hồi này anh thay đổi nhiều lắm.
Chị biết Thê đã có bồ từ lâu ở cơ quan. Chị cho là chị đã lấy phải “một người chồng bạc bội,” chị cũng chẳng thèm ghen, hay cố gìm chân người ta, thì cũng chẳng ăn thua gì. Chị phải cứng rắn, chị coi là chuyện đời thường, mà bây giờ lại sảy đến với mình. Chị coi thường Thê, chị không thèm đả động đến. Chị thương cho hai đứa con của chị, có một ông bố như vậy. Chị cố giữ cho gia đình êm đẹp, cho người ngoài đừng đánh giá về chị, con chị đỡ hổ thẹn vì chuyện gia đình.
Thê gọi điện xong, rồi cũng đi ngủ, anh ngủ luôn ở cái ghế dài phòng khách. Chị Tẻo ra uống nước, thấy thế lấy cái chăn mỏng đắp cho chồng.
Sáng hôm sau, chị dậy rất sớm. Chị thấy lạnh, chị nhìn ra ngoài trời, gần sáu giờ sáng mà trời vẫn tối. Bầu trời u ám, ảm đạm, kéo theo những cơn gió rất mạnh, đập vào cửa nhà thính thịch, rồi mưa sối sả hắt hết vào cửa nhà. Chị vội ra đóng cửa lại. Thê đang ngủ thấy cửa đóng mạnh, Thê không biết, Thê chửi Tẻo: -“ Mày làm cái gì mà mày đóng cửa mạnh thế, mày biết tao đang ngủ, mày cố tình có phải không.” Chị Tẻo thấy chồng nói những câu không có văn hóa, chị cũng chẳng thèm nói. Chị vào gọi các con của chị dậy chuẩn bị đi học, chị rang cơm cho các con ăn, chị xúc một bát để phần chồng, chị cho vào mâm đậy lồng bàn rồi chị bỏ đi làm từ sớm. Mặc dầu trời vẫn mưa, lại còn trở gió nữa.
Đầu óc chị cứ lung tung nghĩ về chồng mình. Từ hồi bố chị về hưu, cụ lại qua đời, chồng thay đổi nhiều quá. Chị đã nghe được nhiều chuyện ở cơ quan chồng. Toàn là những chuyện không hay một chút nào. Thê tìm mọi cách để tiến thân. Hồi Thê ở tổ cung tiêu, Thê đi lấy hàng ở Miền Nam ra. Trên đường đi Thê kết hợp buôn bán nhiều thứ, rồi ăn bớt tiền của cơ quan. Lúc ấy Thê tí nữa bị đuổi, Thê đến nhà chị phó giám đốc phụ trách tài chính của cơ quan, chị đã bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có chồng. Thê kém chị năm tuổi. Chị phó giám đốc như là phải lòng, xóa hết tội cho Thê. Chị còn nâng đỡ Thê nữa, cho Thê đi học tại chức. Bây giờ Thê đã ngồi ở phòng Tổ chức.
Vì lý do đấy, hay là một sự trao đổi, chị giám đốc yêu Thê. Bắt Thê phải bỏ vợ và hứa với Thê, sẽ giúp đỡ hai đứa con của Thê, nhập được hộ tịch ở Hà Nội, lo công ăn việc làm cho chúng. Chị giám đốc còn vạch đường đi nước bước cho Thê, anh phải đòi nuôi hai con, thì mới làm được mọi việc. Khi Thê và chị giám đốc kết hôn với nhau, hai đứa con của Thê nhập tịch dẽ dàng.
Thê về nhà Thê cứ làm căng với chị, Thê tỏ ra không yêu chị nữa, để cho Tẻo kinh ghét Thê, đồng ý ly dị.
Mặc dầu Thê vẫn yêu chị. Thê cũng đau đầu lắm, nghĩ đến cái ghế của anh đang ngồi, nghĩ đến tương lai của hai con. Thê phải quyết định như vậy.
Tẻo hôm nay đi làm đồng sớm, chị mặc áo mưa, thời tiết bỗng dưng lại thay đổi đột ngột. Chị lại suốt đêm căng thẳng nghĩ về chồng, chị ra làm một lúc, chị thấy trời đất quay cuồng, lộn nhào, chị hoa mắt và ngất đi không biết gì nữa. Cũng may có một cậu hàng xóm đi đuổi vịt từ sớm, nhìn thấy Tẻo ngã không biết gì nữa, cậu hàng xóm vội cõng chị về, rồi gọi bác sĩ. Thê thấy vậy, anh cũng hoảng, anh lấy dầu xoa bóp cho vợ, thay quần áo cho vợ. Bác sĩ đến khám và tiêm cho chị, bác sĩ đưa thuốc và bảo Thê cho vợ uống thuốc. Tẻo đã tỉnh, bác sĩ bảo với Thê: - Chị nhà bị suy nhược cơ thể, và cũng làm việc căng thẳng quá bị ngất đi thôi, bồi dưỡng cho chị nhà nhé!
Thấy cô vợ xanh mướt, tóc xơ xác không chải, Thê cũng thương vợ, lâu nay mình đối xử với vợ mình thật quá đáng. Anh cũng nghĩ nhiều lắm rồi, thế nhưng cũng không biết làm thế nào, “ Anh đã cưỡi lên lưng hổ rồi.” Anh phải làm nhưng thế, để cho Tẻo chán anh.
Hai ngày nghỉ ở nhà, Tẻo bị ốm, anh cũng không nói gì nữa. Anh đi chợ nấu cơm cho các con ăn đi học, nấu cháo cho vợ, anh cũng buồn lắm, anh thương Tẻo. Anh cũng không biết, tiếp theo anh nói như thế nào với Tẻo nữa, anh tạm thời im lặng.
Tối hôm ấy, anh hạ cái chõng tre ở ngoài sân xuống, anh ngồi uống nước, anh nhớ lại ngày gặp Tẻo, Tẻo là cô gái rất tốt, còn xinh nữa chứ! Không biết bao nhiêu anh xông vào tán Tẻo. Lúc đấy anh tự hào với đám bạn của anh lắm, bọn bạn cho là “ hêu.” Giỏi tán gái. Tẻo lúc đấy là người rất thùy mị, dịu dàng, động viên nhẹ nhàng nhất trong các em y tá. Anh cũng tự hào về Tẻo, vì anh đã giành được Tẻo cho anh.
Bây giờ anh biết làm thế nào đây? Gần đây anh cố làm mọi cách vũ phu với vợ, để cho vợ chán mình. Không ngờ lại đến…nông lỗi này. Anh nhìn lên bầu trời, mưa đã hết. Nhưng trời vẫn âm u, ảm đạm, thỉnh thoảng có những tia chớp đánh dài thành một đường loằng ngoằng, rồi tiếp theo một tiếng sấm từ xa. Ngoài vườn những đàn gà trong chuồng bị nhốt hơi chật, chúng cứ xô đẩy nhau lục cục. Tiếng ếch kêu sau trận mưa ộp ộp, tiếng chó của hàng xóm xủa ầm ĩ. Những hàng cây gió đưa nghiêng ngả, lúc chầm lúc bổng xuống mặt anh. Anh ngồi thấy gai người, anh nhìn vào trong nhà các con của anh đã học xong, chúng đi ngủ hết. Vợ anh cũng ngủ từ lâu. Anh vội vào đi ngủ.
Anh nằm trằn trọc mãi cũng không ngủ được. Anh nghĩ đến Thắm, “cô phó giám đốc của anh.” Thắm rất tốt với anh. Thắm cũng yêu anh thật sự. Tuy Thắm có hơn anh tuổi, vì Thắm chưa có gia đình, là bà phó giám đốc, nên Thắm trông vẫn trẻ trung, người làm việc thành phố, ăn mặc, cách nói năng rất dễ chịu. Thê cũng rất cảm tình.
Thắm nâng đỡ anh rất nhiều, nếu như không có Thắm anh phải về với vợ từ lâu rồi. Bây giờ Thắm cũng yêu anh, còn vạch ra tương lai sán lạn cho con anh nữa. Anh phải làm thế nào đây với vợ anh, để vợ anh, nghe anh, vì còn tương lai các con nữa chứ! Thê suy nghĩ nhiều cũng mệt và thiếp đi lúc nào không biết.
Tẻo đã đỡ. Gà mới canh ba, chị đã chồm dây lụi cụi nấu cơm nước. Tẻo cũng nghĩ thương Thê, chắc anh cũng phải suy nghĩ và đấu tranh nhiều lắm. “Tẻo như đọc được hết các suy nghĩ của chồng.” Biết đêm qua Thê ngồi rất khuya ở ngoài sân, chị cứ để yên cho anh ngủ. Hai con của Tẻo ăn rồi đi học.
Tẻo cũng chưa được khỏe, chị không đi chợ được, chị ra bắt con gà nhỏ nấu cháo, để trưa cả nhà cùng ăn. Chị để im cho Thê ngủ, dậy lúc nào thì đã có cái ăn.
Chị ngồi nghỉ. Chị ngắm nhìn Thê ngủ, Thê cũng đã già rồi, tóc mai đã điểm bạc, chị thương anh cũng vất vả với vợ con. Chị cũng hiểu Thê, anh lo lắng cho các con của anh, tương lai các con. Chắc anh cũng phải suy nghĩ rất lung khi anh quyết định như vậy. Còn chị, chị lại nghĩ khác, chị không phải hạ mình thế được. Mình sinh ra các con, mình phải tự nuôi các con ăn học đến nơi, đến chốn. Các con của mình phải cố gắng học thật tốt, để có kiến thức, rồi trước sau chúng sẽ có địa vị trong xã hội. Làm sao mình phải chấp nhận cho con “đi ở đợ” với bà dì hai như vậy.
Chị cũng đau đầu lắm! Chị chỉ buồn với Thê thôi, sao Thê lại có những hành động như vậy. Chị dù sao cũng là phó bí thư của xã, mà lại mang một cái tiếng chồng bỏ. Chị không lo cho trong ấm thì chị làm thế nào ngoài êm được. Thế hóa ra mình đầu tắt mặt tối mà không đảm việc nhà à? Chị Tẻo trăn trở mãi, thật là tiến thoái lưỡng nan, đâu có phải như các cụ nói: “ Rằng yêu thì nói là yêu, không yêu nói phứt một câu cho rồi,” mà dễ được.
Trời tờ mờ đất, lợn kêu rít lên đòi ăn. Tẻo lại lúi húi trộn bèo cám cho lợn. Đang loay hoay bê nồi cám vật vã thì Thê dậy. “ để anh bê” Thê nhanh nhẹn, tranh bê nồi cám, tóc hai người chạm cả vào nhau làm Tẻo đỏ mặt. Thê giật mình, hai con của anh hôm nay đi học bị nhịn đói. Thê không biết vợ dậy làm mọi việc. Thê vội lấy xe để đi chợ. Tẻo gọi anh lại. Tẻo nói với Thê:
- Em đã nấu cơm cho các con ăn đi học rồi, em lại nấu nồi cháo gà để đến trưa ăn, anh múc anh ăn đi không thì đói. Các con về chỉ việc đun lại cho nóng thôi.Thê đi ra ngoài đường, anh ngắm nhìn hai hàng cây thẳng tắp. Trời đã hửng nắng, ánh nắng cuối thu đã nhạt dần, nắng hắt nhẹ lên những trái bưởi đang ngả thành màu vàng, những cành nhãn đã thu hoạch hết để lại những cành trơ trụi, lá đã chuyển mùa, những con bướm bay lượn hút những nụ mướp cuối mùa. Anh ngắm nhìn cảnh chiều hoàng hôn ở quê sao nó thanh bình đến thế, rất thoáng đãng và mát dịu. Anh nhìn những người dân ở đây họ sống bình dị và mến khách, nét mặt của họ thật đôn hậu.
Anh nhớ hồi anh và Tẻo đang yêu nhau khi còn ở quân đội. “ Hai đứa đèo nhau bằng cái xe đạp,” vừa đi vừa nói chuyện. Con đường ngày ấy trời mưa còn lầy lội, ổ gà, ổ vịt lúc lên lúc xuống. Tẻo ngồi đằng sau, ôm chặt lấy anh không thì ngã. Bây giờ, nhờ lời dặn của Bác ngày Hòa bình sẽ miễn thuế nông nghiệp, xã lấy tiền đó làm con đường bê tông chạy đến cửa nhà.
Thê mỗi lần về nhà, anh đều sang bên mẹ anh. Nhà mẹ anh ở ngay cạnh khu vườn nhà anh. Mẹ đã già rồi, mắt lại rất kém. Bà ở một mình, hàng ngày Tẻo và các cháu thay nhau sang chăm lo cho bà. Mẹ Thê cũng không biết mọi chuyện về Thê, anh định ly dị vợ. Mẹ khen con dâu rất tốt, may anh lấy được cô vợ “ vừa tốt tính, vừa xinh nữa chứ!” Nhà mình thật có phúc con à. Con phải đối xử tốt với vợ con nhé!
Thê đi trên con đường biết bao suy nghĩ. Đầu óc Thê như muốn vỡ tung ra. Anh về đã thấy Thắm ra đón từ cổng khu tập thể. Thắm cũng nghĩ rằng Thê đợt này về đã giải quyết, xong mọi việc với vợ ở quê rồi. Thắm đon đả bảo Thê:Tẻo hôm nay tinh thần đã khỏe mạnh. chị đi trên con đường xuống xã, nó uốn hình con tôm, theo con mương của làng chị. Hai hàng phi lao chạy, cũng uốn cong hình con Tôm, trông xa như bản đồ. Thỉnh thoảng có các em buộc trâu dưới gốc, chúng rủ nhau đá bóng. Dưới mương, những đàn vịt bơi lội đuổi nhau, chúng kêu càng cạt. Những bác nông dân vác cuốc đi làm ruộng. thấy chị họ hỏi han tíu tít. Trong lòng chị thấy khoan khoái. Chị vào đến xã, mọi người đều hỏi thăm chị, Trêu chị:- “ Chồng mới về, ốm là phải thôi.” Chị nghĩ trong đầu, “ Nếu phải như thế thì tốt biết chừng nào.” Chị thoáng thấy rất buồn. Trong buổi họp hôm nay chị không được hào hứng cho lắm.
Tẻo đi họp về, Chị rẽ vào mẹ chồng cơm nước trước cho mẹ. Chị mới về nhà nấu cho các con. Mấy mẹ con ăn xong, các con lại lên bàn học. Còn chị vào phòng viết lại bản báo cáo cuộc họp hôm nay. Chị nghe thấy tiếng gọi ở ngoài cổng. Chị giật mình, sao hồi này Thê về liên tục thế nhỉ? Chị ra mở cửa. Chị hỏi:- Anh đã suy nghĩ kỹ chưa, anh làm như thế này có làm tổn thương đến các con không. Anh đã nói với mẹ chưa? Hít một hơi thật sâu Tẻo đành lòng nói tiếp: - Thôi thì anh cảm thấy suy nghĩ của anh là đúng, đối với em, em sẽ chấp nhận hết. Nhưng em mong anh ngày mai, anh nói với mẹ, với các con. Em sẽ ký.
Tẻo vội đứng lên mở cửa đi ra. Ngoài trời đang mưa lớt phớt, tiếng ếch kêu inh ỏi, lại nghe thấy tiếng “ gà mái gáy dở.” Các cụ toàn bảo: - “ Làng mình, chắc chắn nhà ai lại có chuyện.” Tiếng gió thổi rì rào, trong vườn cây cối nghiêng ngả. Tẻo bước đi chệnh choạng như muốn ngã. Thê vội chạy ra đỡ vợ vào phòng ngủ. Thê biết Tẻo bị choáng, anh động viên vợ, bảo vợ đi ngủ. Anh cũng nằm ngủ cạnh vợ.
Thê cũng suy nghĩ? Ngày mai anh nói thế nào với mẹ, các con của anh đây. Anh trằn trọc mãi không ngủ được. Anh cũng thấy Tẻo không ngủ được, anh xoa bóp đầu cho vợ dễ ngủ, anh nói:
- Em cứ yên tâm, chúng mình đành hy sinh cho các con, tương lai của các con. Anh xin lỗi em, anh đã chót làm ăn…, Nếu như không có Thắm, thì anh đã bị đuổi. Em hiểu và thông cảm cho anh, “ anh đã cưỡi trên lưng hổ rồi.” Em đồng ý cho anh, ly dị giả vờ thôi em, em vẫn là vợ của anh. “ Anh rất yêu em,” anh ôm vợ.
Sáng hôm sau, anh đi chợ, anh sang cơm nước cho mẹ, anh cũng ăn cùng với mẹ. anh tìm mọi cách để gần mẹ. Anh thủ thỉ nói mọi kế hoạnh cho mẹ. Mẹ anh choáng váng, mẹ chỉ nói, anh muốn làm thế nào thì làm. Tôi chỉ cưới vợ cho anh một lần. Tôi chỉ coi mỗi nó là con dâu thôi. Còn mặt mũi nào nhìn bà thông gia. Anh làm sao lại như vậy. Mẹ khóc, thương cho con Tẻo, nó là người tốt, nó phải chịu thiệt thòi như vậy.
Thê thấy thế sợ mọi người nghe thấy mẹ khóc lóc, anh vội đi về, để mẹ bình tĩnh. Anh về đã thấy các con đi học về hết, chiều thứ bảy con anh không phải đi học thêm, anh tìm cách nói với các con. “ Bố hứa sẽ đưa các con ra Hà Nội đi học sớm.” Các con của anh đều khóc, thấy bố mẹ như thế, nhất là con lớn của anh, nó phản đối.
Thê nói với vợ, em ra nói đỡ cho anh, các con biết dự định cả của em nữa, không thì các con không tin anh.
Tẻo cũng cố tỏ ra cứng rắn, Tẻo nói với các con: - Các con đồng ý đi, các con sẽ ra Hà Nội học, ở ngoài đấy có đủ điều kiện để các con phấn đấu. Mẹ cũng vì các con, mẹ cũng quyết định giống bố con.
Tẻo bảo Thê đưa đơn, Tẻo ký và đưa cho các con ký.
Buổi tối, không khí trong nhà rất buồn bã, các đứa con không nói chuyện gì với bố. Chúng ngồi ăn cơm đều quay mặt đi, Tẻo động viên các con, gắp thức ăn cho các con, sợ chúng nghĩ nhiều rồi ốm. Chị cũng buồn lắm. Chị nghĩ: Không biết lúc tòa gửi giấy mời ra tòa, chị biết ăn nói gì với bà con trong làng, xã, họ nói gì về chị.
Thê rất nhanh chóng thu xếp ổn thoả mọi việc. Thê tổ chức lấy Thắm ở cơ quan, đưa hai con lên Hà Nội. Thắm đã xin được nhà máy một căn hộ tập thể. Thắm cũng tốt, chăm lo cho hai đứa con của Thê. Nhưng Thắm vẫn ghen với Tẻo. Thắm còn tai ngược cho người xây ngăn tường từ khu vườn của Tẻo, sang mẹ Thê để cách biệt. Trước đây bước qua vườn là sang nhà mẹ, bây giờ phải vòng qua cổng mới vào được nhà, thật là gần nhà xa ngõ. Bà con hàng xóm vẫn coi Tẻo là con dâu, ở quê không có chuyện ly dị là cắt đứt, Tẻo vẫn sang chăm sóc bà mẹ chồng đã lòa, lại lợn gà cám bã cả hai nhà.
Thê từ hồi lấy Thắm, hàng năm mới chỉ về quê được một, hai lần, Thắm rất ghen với Thê, Thắm không cho Thê về nhiều. Tẻo rất thương mẹ chồng. hàng ngày Tẻo sang chăm sóc nhiều hơn để động viên mẹ. Mẹ Thê càng thương yêu Tẻo, mẹ nói: “Nếu mẹ làm được gì, hay đánh đổi cả cuộc đời của mẹ, để mẹ bù đắp cho con mẹ cũng làm. Bây giờ mẹ chỉ có một mình con, là con dâu của mẹ thôi”. Rồi mẹ ôm Tẻo mẹ khóc.
Hà Nội ngày 20-9-20015
Tình yêu người lính
Truyện ngắn của Hồng Huyên
Minh họa: ST
Nhận được điện thoại của anh trai, tôi giật mình vì thấy giọng của anh rất trịnh trọng:
Mời các em về dự lễ trao bằng công nhận di tích lịch sử cho Miếu Giáp Lương và Giếng Hóa Giáp Đông, Miếu Giáp Đông của làng mình. Các em về nhé!
Tôi hồ hởi đáp:
-Vâng! Nhất định rồi chúng em phải về chứ anh.
Anh tôi làm ở phòng văn hoá huyện, là họa sĩ nên trang trí, vẽ áp phích, tranh cổ động, tuyên truyền rầm rộ lắm. Mặc dầu sinh sống và làm việc ở Hà Nội đã nửa đời người, nhưng mỗi khi nhắc đến làng của tôi lòng tôi không khỏi bồi hồi. Làng của tôi đẹp lắm, làng tôi nằm ở cuối Hà Nội bên đê là tỉnh Hà Nam. Gữa Hà Nội và tỉnh Hà Nam có con sông Nhuệ chạy dài như dải lụa giữa những rặng tre ríu rít tiếng chim. Về gần đến làng tôi đã nghe thấy đài phát vang vọng từ xa. Tiếng hát chèo quê lụa Hà Tây của chúng tôi hay biết chừng nào. Nó vang vọng thánh thót trên không gian. Lòng tôi xúc động vô cùng. Tôi nhớ những ngày xưa bé. Hồi tôi còn nhỏ khoảng năm, sáu tuổi, tôi thường theo anh, chị tôi xuống sân Miếu để nghe các anh chị tập hát, múa chuẩn bị đón Trung Thu. Đội Nhi Đồng, Thiếu Niên, Đoàn Thanh Niên thi đấu các tổ chức với nhau. Lúc bấy giờ cuộc chiến tranh chống Mỹ đang dữ dội. Máy bay Mỹ thỉnh thoảng vẫn giội bon xuống xã tôi. Một xã có ba thôn: Thôn tôi là thôn Giang Triều, thôn dưới là Kim Giang và thôn Đông Đình. Hồi đó trong lúc chiến tranh dữ dội nhưng các anh chị tối đến vẫn tập hát múa để cổ vũ tinh thần chiến đấu. Còn sáng ra, loa truyền thanh suốt ngày kêu gọi mọi người đi sơ tán. Mẹ tôi nấu cơm từ nửa đêm để cho bọn giặc khỏi nhìn thấy khói. Sáng ra, vì tôi còn bé, nên mẹ tôi cho tôi vào gánh. Một bên là tôi, một bên là cơm canh, còn các anh chị lớn đì bộ. Hồi ấy, máy bay Mỹ giội bon xuống xã tôi, biết bao nhiêu bon nổ chậm, các du kích phải đi tháo gỡ rất nguy hiểm. Bây giờ xe ô tô chạy trên đường bê tông rộng thênh thang qua làng, qua cổng nhà tôi. các nhà xây như vi la biệt thự mọc lên. Cuộc sống làng tôi bây giờ thật là cao cấp.Thanh niên làng tôi rất chịu học, có nhiều tiến sĩ, giáo sư nữa, nhà văn, họa sĩ cũng có. Tôi tự nghĩ mức sống quê tôi cao cấp quá. Tôi nhìn lối đi xuống Giếng Hóa và Miếu Giáp Đông ở gần nhà của anh tôi. Thấy lá cờ hội, cờ Phật phấp phới cùng cờ đỏ sao vàng mà lòng tôi xúc động vô cùng. Tôi thấy bà con trong làng, các cụ áo the khăn xếp, thanh niên thì com-lê, áo dài tấp nập đến nhà văn hóa, sân đình của làng. Những ô tô bốn chỗ ngồi, bảy chỗ ngồi, xe khách đỗ đầy ở sân vận động, dường như những người đi xa xứ làm ăn già, trẻ tất cả đều về trảy hội hết. Tôi đi đến sân đình thì thấy mọi người đang bắt tay nhau, ôm nhau thắm thiết. Tôi vào đến sân tất cả cũng ùa ra ôm tôi chào hỏi quấn quýt. Lũ bạn bè học với tôi ngày bé ở cấp một, cấp hai bây giờ đã ngoài năm mươi hết rồi. Ai cũng vui sướng được gặp nhau trong ngày hội. Tôi bất chợt thấy tim tôi đau nhói, như có ai nhìn xiên vào tim tôi. Tôi quay về phía bên tay trái nhìn thấy anh ấy. Anh vẫn nhìn tôi say đắm như hồi chúng tôi mới quen nhau.
Ngày ấy! Tôi đang học lớp 12, còn anh thì năm cuối của đại học. Anh đến với tôi từ ngày ấy. Hồi đó tôi còn nhỏ mới học cuối lớp 12 trong đầu tôi với biết bao hoài bão. Trước mắt, tôi đang lo sợ đến đường đi nước bước của đời tôi, lo sợ có đỗ vào đại học hay không. Tôi gặp anh ấy lúc bấy giờ, trong lòng tôi cứ nghĩ là phải tập trung vào học, nhưng trái tim tôi cứ bồi hồi mỗi khi gặp anh. Hồi đó bố tôi làm cán bộ ngân hàng ở Hà Nội. Bố đưa tôi lên học cấp ba ở Hà Nội. Anh thỉnh thoảng vẫn đến chỗ tôi và không biết tôi đã yêu anh từ lúc nào. Anh cũng yêu tôi qua các cử chỉ và hành động. Mặc dầu hồi đó anh rất nhút nhát chưa bao giờ anh hỏi: “yêu anh không.” Anh chỉ thể hiện việc làm của anh giành cho tôi. Tôi tốt nghiêp lớp 12, còn anh thi học xong đại học. Lúc đó tôi vẫn còn mông lung lắm rất lo nghĩ cho tương lai của mình. Tôi quyết định quên anh đi một thời gian để tập trung vào học tập, bởi vì tôi cũng tự nói với chính mình. Anh ấy đã nói gì với mình đâu, mà tim mình cứ ngộ nhận thế! Thời gian sau tôi thi xong đại học, đang đợi kết quả. Còn anh nghe tiếng gọi của Tổ quốc, anh lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Thời gian đó chúng tôi ít gặp nhau. Tôi bước vào đại học đã được hơn một năm. Vào ngày chủ nhật tôi về quê chơi. Tối hôm đó tôi nhớ có Đội cải lương Hoa Mai về xã tôi biểu diễn. Cả xóm chúng tôi ai cũng nấu cơm sớm để ăn sớm đi xem.Tôi và chị dâu tôi cũng ăn cơm sớm để đi xem. Hôm nay đoàn cải lương biểu diễn ngoài trời, đông người đến xem lắm, mọi người cứ chen lấn xô đẩy. Khổ nhất là những con gái như tôi, bọn con trai lợi dụng chỗ đông đúc mà càng xô đẩy. Đang lúc hoang mang thế, đông thế. Tôi nghe thấy tiếng gọi tên mình, tôi nhìn thấy anh ấy, anh bảo: “Đưa tay cho anh để anh kéo em ra.” Tôi làm theo anh bảo. Tôi thoát khỏi đám đông ấy. Lúc ra được bên ngoài đám chen, tôi như muốn ôm chầm lấy anh vì vui sướng. Anh như một vị cứu tinh của em, tim tôi như thốt lên như vậy. Hôm ấy, anh mặc bộ quần áo bộ đội rất nghiêm túc của một người lính, vì thế bọn con trai xã tôi hay các xã bên cạnh không dám đến gần chúng tôi.
Anh nhìn tôi và nói:” Em đi xem ở đây là thế đấy, không như ở Hà Nội đâu.” Rồi anh cầm tay tôi rất chặt, anh sợ mọi người xô đấy lại ngã. Anh là người rất nhát. Trong buổi tối hôm ấy, anh đứng cạnh tôi, anh chỉ nhìn tôi với cặp mắt âu yếm, anh ngượng ngùng như muốn nói gi với tôi nhưng anh lại sợ. Chúng tôi gặp nhau, tôi và anh ấy mừng thật sự. Mãi đến lúc chuẩn bị hết vở cải lương anh mới hỏi: “Baogiờ em đi.” Còn tôi, tôi cũng xấu hổ lắm, tôi không còn dám hỏi anh! Chúng tôi cứ đứng gần nhau cho đến khi tôi nhìn thấy chị dâu tôi đang đi tìm tôi. Tôi gọi chị tôi cũng mừng đã tìm được tôi rồi. Thế là anh ấy dẫn chúng tôi ra ngoài lánh vào một chỗ để cho mọi người ra dần và gần hết chúng tôi mới đi. Trong buổi tối hôm ấy, cả ba chúng tôi đều nói về vở kịch cải lương nhất là chị, chị tôi hăng say kể. Còn tôi và anh đi bên cạnh để nghe. Chị cũng đoán là chúng tôi đứng bên nhau, nhìn nhau nói chuyện thì xem được gì. Gần về đến nhà, chị tôi biết ý đi rất nhanh, chị về trước. Anh đưa chúng tôi về đến nhà, rồi chúng tôi đứng ngoài cổng một lúc. Anh vẫn lúng túng với tôi và cũng chẳng nói được câu gì. Tôi tự nghĩ sao anh vào bộ đội rồi mà vẫn nhút nhát như vậy. Anh cầm tay tôi anh nói muộn rồi em ạ! Em vào đi ngủ đi, mai em còn phải ra đi học. Tôi vâng! Rồi tôi đi vào nhà. Trong đêm hôm đó, tôi cũng khó ngủ, đầu tôi cứ nghĩ miên man, tôi cũng không biết anh có yêu tôi thật sự không? Bởi vì anh có nói gì với tôi là: anh yêu tôi đâu, anh nhát quá. Hôm sau tôi phải đi ra học, còn anh ở lại hai ngày sau anh mới đi.Hôm anh đi qua Hà Nội, anh vào chỗ tôi. Tôi mời anh ở lại ăn bữa cơm trưa. Buổi trưa bố tôi đi làm, bố ăn cơm ở cơ quan. Trong bữa cơm chỉ có tôi và anh, thế rồi anh vẫn nhút nhát chẳng nói với tôi câu gì. Tôi ngượng không dám nhìn vào mắt anh, tôi gắp cho anh , anh lại gắp cho tôi. Ăn xong một lúc anh vội ra đi không nhỡ tàu. Anh bắt tay tôi, anh nhìn tôi lưu luyến, anh như muốn ôm tôi nhưng anh lại ngượng. Anh vội vã đi về đơn vị. Từ đó anh mất hút một thời gian. Tôi không nhận được tin tức về anh. Trong thời gian đó chiến tranh biên giới nổ ra. Tôi rất lo cho anh nhưng tôi cũng không nhận được tin tức. Sau những năm tháng ấy. Tôi gặp chồng tôi bây giờ. Chúng tôi xây dựng gia đình với nhau. Nhưng tôi vẫn theo dõi, dò hỏi về anh, qua một anh bạn của anh tôi mới biết. Chiến tranh phía Bắc nổ ra rất ác liệt, đơn vị của anh phải lên trận tuyến đó để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Anh bị thương và đã chuyển về khu an dưỡng của quân đội. Anh giấu tôi và không cho tôi biết tin tức về anh. Sau thời gian đó, chiến tranh biên giới kết thúc. Anh được ra quân trở về. Anh biết tôi đã xây dựng gia đình rồi, anh rất buồn. Còn tôi, tôi cũng buồn lắm và thầm nghĩ trách anh, nhưng rất thương anh. Tôi chỉ mong cho anh gặp được một người khác, anh hạnh phúc và thành đạt trong sự nghiệp. Tôi được biết anh chuyển công tác về một cơ quan làm kinh tế. Anh đã được bổ nhiệm làm cán bộ. Anh cũng chật vật vất vả lăn lộn với cuộc sống. Anh gặp rất nhiều khó khăn. Cả thế giới bị suy thoái cơ quan anh bị phá sản. Sau đó anh đã phải chuyển biết bao nhiêu là nghề khác và anh cũng xây dựng gia đình. Tôi rất mừng cho anh và mong anh được hạnh phúc. Thế rồi ngày tháng trôi đi, đã được hơn ba mươi năm, hôm nay trong ngày lễ hội tôi lại được gặp anh. Anh đi đến gần tôi, tôi quay lại chào anh. Anh bắt tay tôi rất chặt và vẫn nhìn tôi như hồi nào.
Anh hỏi tôi: “em có khỏe không,” tôi trả lời: “em khỏe.” Lúc đấy loa truyền thanh vang lên: “Xin mời các cụ, các bác, các vị đại biểu, các anh chị, các cháu vào nhà văn hóa để dự lễ trao bằng di tích.” Bao nhiêu năm tháng bây giờ gặp lại nhau, bao nhiêu chuyện muốn nói, nhưng anh vẫn nhút nhát đi sau tôi một bước. Trong ngày lễ hội, có mặt của các vị lãnh đạo Thành phố, cấp quận, huyện đều có mặt đầy đủ. Các vị đại biểu biểu Thành phố thay mặt cho nhà nước phát biểu và trao tặng bằng di tích cho Miếu Giáp Lương và Giếng Hóa, Miếu Giáp Đông cho thôn Giang Triều, xã Đại Cường Huyện Ứng Hòa Hà Nội. Anh ngồi bên cạnh tôi nói với tôi: “Làng mình Chùa và Đình cũng được vào di sản cấp nhà nước trao tặng rồi em ạ. Hôm nhận bằng anh cũng về nhưng anh không nhìn thấy em.”
Tôi nhìn lên trên lễ đài xem ai phát biểu mà hùng hồn thế! Hóa ra là anh trưởng họ của tôi. Anh bộ đội về bây giờ là bí thư đảng bộ của xã. Trông anh tôi mà hãnh diện, anh mặc bộ quần áo con lê thắt cà vạt trông trang nghiêm làm sao. Anh phát biểu hồ hởi và phấn khởi, tự hào về quê hương mình. Đến lượt chủ tịch xã. Tôi hỏi anh: ”Chủ tịch xã mình là ai thế!” Anh nói: ”Chủ tịch xã mà em cũng không biết à!.” Anh trêu tôi, anh bảo: “Em phải chịu khó về quê vào, không thì em mất gốc đấy!” Rồi anh nói tiếp: “Em đi lấy chồng xa, em có gì mà lưu luyến đến quê đâu. Các kỷ niệm ngày thơ ấu lâu rồi em cũng quên hết!”.
Tôi biết anh đang châm trọc tôi. Tôi đành quay lại anh. Tôi cũng hỏi: “ Anh xa quê hương lâu lắm rồi, anh cũng có nhớ cái gì không?”.
Anh đáp lại tôi. Anh nói như đúng rồi: “Việc nhỏ nhất cho đến việc lớn, anh vẫn nhớ không bỏ sót một chi tiết nào.” Tôi sợ nói chuyện mất trật tự. Tôi quay lên trên xem chủ tịch xã là ai. Tôi trông anh chủ tịch rất quen mà tôi vẫn không nghĩ ra được. Quay lại phía anh, tôi hỏi anh: Ai đấy hả anh? Anh bảo tôi: - Đó là Hùng con bác Năm em à. Tôi kêu lên:
Đó là Hùng bạn em ngày xưa. Chúng em học cùng với nhau từ hồi cấp 1 cấp 2 anh ạ! Lâu không gặp nhau bây giờ trông bạn ấy khác quá.
Anh trêu tôi: “Hôm nay may ngồi cùng anh, không thì ra đường gặp bạn, đánh nhau vỡ cả đầu, cũng không nhận ra được bạn”. Tôi nhìn lên xem bạn tôi đọc và phát biểu thế nào. Trông bạn tôi bây giờ cũng oai nhỉ. Tôi cũng tự hào về bạn. Tôi nói với anh: “Ngày xưa, Hùng cùng học với em, bạn ấy hiền lắm, học cũng chưa được xuất sắc, bây giờ bạn ấy phấn đấu, nói năng chững chạc hẳn lên.” Anh nói: “ai chẳng thế, em à.” Anh còn nhát hơn cả bạn em ý. Anh lại nhìn tôi nói: “Thế anh mới đánh mất tình yêu chứ! Nếu như bây giờ anh không chịu mất người yêu đâu.” Tôi nhìn anh. Thấy mặt anh phảng phất nỗi buồn. Tôi cảm thấy lúng túng. Tôi nhìn lên trên, chủ tịch vừa hay đọc xong diễn văn, cả hội trường vỗ tay. Bây giờ tiếp đến mục văn nghệ của làng. Chị dâu tôi cũng ở trong đội văn nghệ.Tiếng chèo lảnh lót vang lên. Tôi lặng người đi để nghe thảng thốt trong tim. Tôi bảo anh: “Các chị hát chèo hay quá.” Mình phải tự hào, “Quê luạ” của mình anh nhỉ? Anh nhìn tôi và nói: “Em có hát chèo được không,” không hát được là em đã “mất gốc rồi đấy”.
Anh lại bảo: “Gái quê lụa dù có đi đâu chăng nữa thì vẫn phải giữ được bản sắc của quê mình. Thế mới giữ được truyền thống của quê cha đất tổ chứ.” Tôi lấy tay đập vào tay anh. Anh đừng có trêu em nữa đi! Em thấy anh bây giờ nói nhiều và lém lỉnh thế.
Tôi trêu anh! Ngày xưa giá như anh được như bây giờ thì đâu đánh mất “ tình yêu”.
Anh trêu tôi : “bây giờ anh không chịu mất nữa, em có chịu không.” Thật sự tôi nghe thấy anh trêu, tôi giả vờ không nghe thấy anh nói. Tôi sợ những người xung quanh tôi không hiểu, họ hiểu lầm chúng tôi. Rồi tôi ngẩng đầu lên, xem ai ngâm thơ mà hay thế. Tôi nhìn thấy hóa ra là chị dâu của tôi. Tôi cũng không ngờ chị dâu tôi lại ngâm hay đến thế. Tôi hỏi chị bên cạnh: ”Thơ ai viết đấy,” chị ngồi bên cạnh tôi không biết tôi là em trai. Chị bảo anh Nghiêm đây? “Chồng viết vợ ngâm,” nổi tiếng ở làng em ạ. Tôi rất tự hào anh trai của tôi! Anh là họa sĩ, bây giờ lại làm nhà thơ nữa chứ. Thơ của anh rất hay, thơ anh được đăng lên nhiều báo. Anh thấy tôi suy tư nhiều quá. Anh quay lại bảo tôi: “Em nghĩ gì mà trầm tư thế!” Anh nói: “Nhà em ai cũng có chất nghệ đấy.” Tôi bảo với anh: “Đó là một nghề nghiệp thôi mà.” Anh hỏi tôi: - Dạo này chồng em ra được nhiều sách không?
- Vâng! Chồng em cũng được gần chục cuốn rồi anh ạ.
Anh nói: Bao giờ ra Hà Nội tặng anh một quyển nhé!
Tôi nhận lời và bảo với anh đến giờ bế mạc rồi, anh có tranh thủ đi lễ không. Đi lễ xong các nơi rồi mới về ăn cơm anh a. Anh cũng đồng ý như vậy. Chúng tôi và mọi người ai ai cũng tranh thủ đến bàn công đức, dù ít dù nhiều trong lòng chúng tôi cũng có một ít bồi hồi, đóng góp tu tạo cho quê hương ngày càng tươi đep hơn. Chúng tôi đi lễ vể rồi vào nhà ăn, mọi người đã về đông đủ. Anh vẫn ngồi mâm cùng tôi. Mọi người nâng cốc chúc mừng nhau, hỏi han nhau rất vui. Hôm nay chúng tôi về được coi là khách mời nên ở làng, các cán bộ xã rất quan tâm. Họ đi từng bàn ăn để chúc mừng. Đến bàn tôi anh Bí Thư là trưởng họ của tôi, trêu tôi:
- Em của anh hôm nay xinh thế, lộng lẫy quá, rồi anh lại hỏi tôi -Thế chồng em hôm nay không về à?
- Hôm nay chồng em đi họp anh ạ. Anh bảo tiếc nhỉ? Hôm nay có em rể là nhà văn về thi hay quá. Người đứng bên cạnh tôi là chủ nhiệm xã, bạn cũ của tôi . Tôi ngồi im xem bạn có nhận ra tôi không. Cậu bạn nhìn tôi nhưng không nhận ra. Vì thế chúc mừng xong bàn của tôi rồi chuẩn bị ra bàn khác. Anh ngồi bên cạnh tôi, kéo Hùng lại, anh bảo Hùng có nhận ra cô này là ai không. Hùng nhìn tôi một lúc chỉ bảo là rất quen nhưng không nhớ ra ai. Thấy Hùng cũng ngượng không nhận được ra, tôi chủ động đứng lên một cách rất mạnh bạo, tỏ ra là mình nhận ngay bạn, bởi vì tôi được anh ấy giới thiệu rồi. Tôi giơ tay ra bắt tay Hùng. Hùng cũng ngượng vì không nhận ra tôi. Tôi trêu Hùng và gợi cho Hùng; Hồi bọn mình học cấp 1, cấp 2 bạn có nhớ một cô bạn lúc nhỏ gày và yếu nữa chứ, ngồi song song với bàn của cậu không. Hùng nghĩ ra ngay tôi, Hùng nói với tôi:
- Kể ra chúng mình không gặp nhau mấy chục năm rồi còn gì. Ai trông cũng khác nhiều lắm!
- Thế bạn bây giờ làm ở đâu?
- Mình là họa sĩ ai thuê gì thì mình làm, rảnh dỗi thì sáng tác. còn mình nhìn cậu, bây giờ cậu làm chủ tịch: “trông oai quá.” Mình trêu cậu thế thôi! Kể ra xã mình có những người lãnh đạo như cậu, cho nên mình thấy quê mình đổi thay nhiều lắm.Hùng ngồi nói chuyện một lúc, Hùng xin phép còn đi tiếp khách. Mâm của chúng tôi cũng ăn xong rồi. Mọi người ra bàn uống nước. Tôi cũng vội về nhà anh tôi, thắp hương các cụ xong còn đi ra Hà Nội cho sớm. Tôi ra về nhưng không nhìn thấy anh ấy đâu để chia tay. Về đến nhà anh tôi, mọi người đã về hết. Anh tôi bảo. Em lên thắp hương đi, rồi xuống nhà uống nước. Thắp hương xong, cả nhà ngồi ở bàn uống nước, nói chuyện râm ran cả nhà. Tôi quay lại anh tôi. Tôi bảo anh: “ Hôm nay anh làm thơ hay quá! chị ngâm cũng hay”.
Anh tôi bảo: - Anh mới làm bài thơ về mẹ cũng hay. Để anh bảo chị ngâm cho mà nghe? Chi tôi ngâm cả nhà ngồi yên lặng để nghe. Trong lòng tôi nghe và xúc động vô cùng. Tôi khóc vì cũng nhớ mẹ. Bài thơ anh tôi viết hay quá! Đúng với tâm trạng của mẹ. Mẹ tần tảo nuôi bốn anh chị em chúng tôi. Bây giờ chúng tôi trưởng thành hết rồi và cũng không đến nỗi khó khăn, thì mẹ không còn nữa. Tất cả chúng tôi đều không cầm được nước mắt. Bỗng nghe tiếng điện thoại của tôi rung lên, tôi nhìn thì không thấy số này trong danh mục, nhưng tôi vẫn nghe. Nhấc máy lên, tôi hỏi ai đấy. Tôi nghe thấy nói: “Anh đây.”Tôi giật mình và ngạc nhiên sao anh lại biết số điện thoại của mình nhỉ? Anh nói: “Em về lúc nào mà anh không biết, bao giờ em đi.”
- Vâng! Một lúc nữa em đi, anh có rảnh xuống nhà em chơi. Thôi, anh đang bận, có một chút việc em ạ. Anh bảo tôi đi cẩn thận. Bao giờ rảnh đến tặng anh một quyển sách.
Tôi hỏi anh bao giờ anh đi. Anh nói:
Sáng mai anh còn ăn đám cưới đứa cháu xong rồi mới đi, nếu không có đám cưới thì đi cùng nhau. Anh lại nhắc tôi một lần nữa, phải tặng sách cho anh, rồi chào tôi bằng tiếng Anh “Thank” em, đi may nhé! Tôi vào nhà uống nước rồi chuẩn bị đi về cho nó sớm. Uống nước xong, tôi chào cả nhà rồi tôi đi. Ngồi trên xe lòng tôi nặng trĩu biết bao nhiêu suy nghĩ…
Mấy ngày sau, tôi lên hiệu sách ở Bờ Hồ, tình cờ tôi gặp anh đang ở hiệu sách. Anh gọi tôi và nói:
- Em cũng lên hiệu sách à? Chẳng đợi tôi trả lời, Anh hỏi: - Trong này có sách của chồng em không?
- Có ạ! Nhưng không biết có còn không.
Tôi hỏi anh:
- Sao hôm nay anh rảnh thế! Anh bảo: - Anh làm gần đây em ạ. Tự nhiên anh thấy buồn đi lang thang ra ngoài hiệu sách xem có cuốn nào của “chồng em không.” Anh trêu tôi.
- Anh! Ở cốp xe của em cũng có một cuốn ngay tiện gặp anh em tặng luôn cho anh.
Anh rủ đi uống nước. Gần đây có hàng cà phê, chúng tôi vào ngồi. Anh nói: - Anh đang buồn quá may lại gặp em ở đây, anh thấy vui quá!
Chúng tôi ngồi bên nhau nói chuyện rất nhiều. Anh thổ lộ hết với tôi! Ngày xưa anh yêu em biết chừng nào, thế mà em không biết. Lúc đấy anh vẫn trong quân đội, nhớ em anh chỉ muốn lên tàu về ngay với em. Nhưng anh lại nghĩ. Em còn trẻ quá, em vẫn còn ngây thơ và trong sáng. Anh biết là em còn phải học, còn phải phấn đấu. Anh không muốn quấy rối em. Anh âm thầm chịu đựng, kìm nén mình lại để cho em yên ổn học tập. Chiến tranh biên giới nổ ra, đơn vị anh phải lên trận tuyến. Anh bị thương, lúc đó đơn vị chuyển anh đi an dưỡng và điều trị. Trong những ngày điều trị ấy, anh đấu tranh tư tưởng vô cùng. Anh suy nghĩ có nên cho em biết không, đầu anh như vỡ ra, nhưng anh lại không dám. Anh sợ em có còn yêu anh nữa không, vì lâu lắm rồi anh không liên lạc được với em. Anh quyết định thôi. Tôi nghe anh nói mà lòng đau đớn vô cùng. Tôi thầm trách anh, anh là người vụng về quá, trong tình yêu chỉ sợ, mà không biết quyết đoán cho mình. Anh nhìn tôi, thầy tôi im lặng, anh hỏi tôi: - “bây giờ em có còn yêu anh nữa không!” Lúc ấy tôi không cầm được nước mắt và nói: “làm sao em có thể quên được anh đây.” Anh rút trong ví ra đưa cho tôi, anh nói: “ Em đọc tờ giấy này đi.”Anh như chứng tỏ tình yêu của anh đối với tôi. Tôi nhìn tờ giấy đã vàng ố như anh đã cất giữ từ lâu lắm rồi. Tôi cầm tờ giấy ra đọc, tôi mới biết bài thơ anh viết giành cho tôi. Anh nói: “Bài thơ này lúc nào anh cũng cất giữ ở trái tim anh,” và anh cảm thấy “em luôn ở bên anh.” Giờ đây gặp em anh không giữ được lòng mình nữa. Em có hiểu cho anh không? Nước mắt tôi đầm đìa, xúc đọng vì thương anh. Tôi thầm trách anh và tôi nghĩ bây giờ anh mới nói thì có nghĩa lý gì đâu. Anh thấy tôi khóc, anh ôm tôi và nói: - “Bài thơ này anh viết vào một đêm trời rất lạnh, trăng rất sáng. Anh đứng gác trên một quả đồi chỉ có một mình anh. Lúc đấy trời đấy sao anh nhớ em vô cùng. Anh như muốn bỏ cả gác để về bên em.”
Trời ơi! Tim tôi đau nhói, tôi bảo anh đừng kể nữa. Anh kể bây giờ thì tất cả đã muộn rồi anh ạ. Anh nói: “Bây giờ chúng mình….” Không được đâu anh! Em đã có một tổ ấm rồi, anh cũng thế. Tôi sợ anh lại nói! Tôi vội vùng ra và đứng dậy vì cũng muộn rồi, tôi xin phép anh, tôi về trước. Tôi ra ngoài trời rét vô cùng, cái rét mùa đông sao lạnh thế. Lòng tôi nặng trĩu và lảo đảo bước đi như sắp ngã. Tôi thương anh vô cùng. Tôi quay lại vẫn thấy anh ngồi trong đó. Không hiểu sao tôi lại chạy vào với anh. Tôi lấy chiếc khăn màu xanh của tôi quàng cho anh, thấy anh mặc phong phanh quá. Tôi bảo: - “Anh quàng cho ấm trời rét lắm anh ạ. Em mong anh hạnh phúc với những gì mà mình đang có.” Chia tay anh, Tôi đợi mùa lễ hội năm sau. Chẳng biết anh có về…
Ngày 1 tháng 4 năm 2015
Tác giả ; Hồng Huyên
Cảnh đẹp quê hương
Đoàn nữ họa sĩ của chúng tôi đi thăm quan thực tế đầu xuân ở Ninh Bình. Tôi ngồi trên xe nhìn qua cửa kính, hai bên đường hoa gạo nở rực rỡ nhưng sắp đón mùa hè tới và tạm biệt mùa xuân. Những cánh hoa rơi rụng xuống đất như một dải thảm đỏ, trên trời đỏ rực các hoa đang đua nở. Chúng tôi đến Ninh Bình và dừng chân ở nhà thờ Thánh Xứ Sở Kiện. Chúng tôi ai ai cũng ngạc nhiên về vẻ đẹp hoàn trán, với kiến trúc cổ kính và tĩnh mịch, như đi vào trong một lâu đài cổ thế kỷ thứ 19, những cây gạo nở đỏ rực ở cổng nhà thờ và dọc con mương, xen lẫn với kiến trúc cổ kinh của Thánh Xứ Sở Kiện làm du khách có cảm giác như đi vào trong câu chuyện cổ tích. Chúng tôi ai ai cũng lấy máy ảnh ra chụp. Chúng tôi đi sâu và trong nhà thờ, tôi choáng ngợp bởi các kiến trúc được xây dựng hoành tráng, của các bàn tay khối óc của người dân nơi đây. Chúng tôi đi càng sâu vào trong như lạc lõng vào không gian chuyện cổ với kiến trúc công nghệ cao nhất của Châu Âu lúc bấy giờ, kiến trúc xây dựng rất lô – tíc. Tôi ước lượng nhà thờ này (dài hơn 67m rộng hơn31m nhân với chiều cao hơn 23m). Nhà thờ này được đánh giá là huy hoàng nhất tại Đông dương lúc ấy, với kiến trúc từ một nhà tranh vách đất thành một đại chủng viện bề thế cho toàn bộ giáo phận Đàng Ngoài. Chúng tôi các nữ họa sĩ cứ tản ra mỗi người mỗi góc thể hiện góc đẹp riêng của mình. Tôi đến gần chị Chủ Tịch hội chị nói: “chúng mình hôm nay đi thăm và dừng chân ở đây thật là tuyệt đẹp, và rất có ý nghĩa cho các họa sĩ chúng mình em nhẻ”.
Chúng tôi không ngờ rằng, nơi đây, từ rất lâu, bàn tay tài hoa và khối óc nghệ sĩ của những người nông dân đất Việt đã tạo nên những công trình có giá trị mỹ học rất cao. Chúng tôi đều muốn ghi lại những tài hoa ấy vào tranh của mình, để góp phần tôn tạo và quảng bá di sản của cha ông để lại.
Ngày 26- 4 – 2015
Nguồn tin: HNV.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn