- Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân sinh tại thị trấn Ninh Giang (nay là xã Ninh Giang) tỉnh Hải Dương; xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Tuổi thơ của Anh Thơ rất gắn bó với thôn xóm, đồng quê. Anh Thơ được ảnh hưởng tốt của gia đình bên ngoại (ông ngoại là cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu) và lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang sôi nổi. Nữ sĩ đã tìm đến thơ như tìm con đường tự giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, buồn tẻ và khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đương thời. Anh Thơ có thơ đăng báo Đông phương, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nạy, Phụ nữ từ năm 1939. Bà được tặng giải Khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1939. Bà có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp sống của đồng quê Bắc Bộ. Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Anh Thơ tham gia kháng chiến chống Pháp, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II). Năm 2001, Anh Thơ được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật; năm 2007, bà được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Những tác phẩm chính: Bức tranh quê (thơ - 1941); Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957); Từ bến sông Thương (hồi kí - 1986); Tuyển tập Anh Thơ (1986).
- Bài thơ CHIỀU XUÂN.
Bài thơ Chiều xuân được rút từ tập Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ, gồm 41 bài viết về cảnh nông thôn bình dị, quen thuộc. Một số bài trong tập thơ làm xúc động lòng người đọc bởi những nét vẽ chân thực, tinh tế, thấm đượm tình quê đằm thắm và có chút tâm sự bâng khuâng, man mác buồn của “cái tôi” Thơ mới.
“Chiều xuân” là bài thơ được viết theo lối thơ 8 chữ. Cả bài thơ có 12 dòng, xếp thành ba khổ, đủ sức họa nên bức tranh “Chiều xuân” với những hình ảnh, chi tiết rất tiêu biểu cho cảnh chiều xuân nơi đồng quê Bắc Bộ nước ta:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,*
* *
Anh Thơ đi tìm cảm hứng ngoài “cái tôi”. Như một họa sĩ vẽ phong cảnh, bà quan sát cảnh vật, dùng đường nét và màu sắc vẽ những cảnh mắt trông thấy, có bố cục lựa chọn, nhưng ít đưa tình cảm vào, nếu có thì những tình cảm ấy cũng nhẹ êm như gió thoảng mơ hồ.
“Chiều xuân” đẹp như một bức cổ họa. Cái nền của bức tranh là màu trắng mờ của mưa xuân, một thứ mưa phùn rất gợi cảm, rất nhẹ, rất êm. Mờ ảo trong trong màn mưa êm êm đổ bụi ấy là một bến đò xuân có con đò nằm im đợi khách, có quán tranh không người lui tới cũng “im lìm trong vắng lặng”. Hòa sắc với mưa xuân còn có màu tím nhạt của hoa xoan “rụng tơi bời” bên quán tranh, một thứ màu thôn quê thân thuộc. Đó là cận cảnh.
Xa hơn một chút là màu xanh mơ màng sung sức của cỏ non mùa xuân mơn mởn tràn lên thân đê đồng nội, là mấy cánh bướm rập rờn trước làn gió xuân nhè nhẹ, là “Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ”, và “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”. Có xôn xao một chút sức sống của mùa xuân, có hoạt động nhưng chỉ làm tăng thêm cái tĩnh mịch của không gian chiều xuân êm ả. Đó là thiên nhiên, làng quê từ muôn năm cũ không tự đổi thay, vẫn cứ trở đi trở lại cùng với mùa xuân và làn mưa bụi, uể oải và “biếng lười”, tĩnh mịch và tù túng, phó mặc cho sự chảy trôi của thời gian.
Thực ra “Chiều xuân” của Anh Thơ là một nhóm tranh gồm ba bức cổ họa. Ba bức tranh có chung cái nền mưa xuân đổ bụi êm êm, mờ mờ. Mỗi bức lại có bố cục, đường nét và mảng khối , với những hòa sắc riêng. Bức tranh thứ nhất gồm có bến đò, dòng sông, con thuyền, quán tranh, chòm hoa xoan tím; trừ có hoa xoan rụng, nước sông lặng lẽ trôi là hai nét động, còn lại là tĩnh, tất cả “đứng im lìm trong vắng lặng”. Bức tranh vắng bóng con người.
Bức tranh thứ hai là cảnh chiều xuân trên đường đê đồng nội, gồm có cỏ non tràn biếc thân đê, có mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió gió xuân, có đàn sáo và những trâu bò cắm cúi gặm cỏ. Nét động có nhiều hơn: cỏ “tràn” biếc; đàn sáo”sà” xuống “mổ vu vơ”; trâu bò thong thả “cúi ăn mưa”; cánh bướm “rập rờn trôi”. . . nhưng tất cả những hoạt đông đó cũng chỉ tăng thêm nét tĩnh lặng cho không gian chiều xuân. Bức tranh vẫn vắng bóng người.
Bức tranh thứ ba tả cảnh đồng lúa mới thật sự có sinh khí, một sức sống thanh xuân bừng thức dậy, xôn xao cả chiều xuân. Đồng lúa xanh rờn và ướt lặng này chính là lúa chuẩn bị ra đòng. Trong màu xanh mênh mông của đồng lúa có hứa hẹn một mùa vàng, có niềm hi vọng no ấm. Đột xuất trên cái nền “xanh rờn” của lúa thì con gái là sắc trắng của cánh cò non “chốc chốc vụt bay ra”, những cánh cò non chưa đủ sức “bay lả rập rờn” trên đồng lúa xuân, nhưng cũng có sức phá vỡ cái bằng lặng của không gian chiều xuân, làm cho không gian có hơi ấm của sự sinh sôi, nẩy nở. Cái sắc trắng của cánh cò, cái động thái “chốc chốc vụt bay ra” rất bất ngờ của lũ cò non đủ để “Làm giật mình một cô nàng yếm thắm”. Con người xuất hiện giữa sự sống trẻ trung, bản thân con người cũng tràn đầy sức sống: màu xanh rờn của lúa thì con gái, màu trắng của cánh cò non, màu đỏ của yếm thắm đặt trong một khuôn tranh đối chọi mà hòa hợp với nhau biết bao nhiêu. Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng lúa ấm áp sự sống ở mức độ đẹp nhất. Nếu thiếu đi cái màu “xanh rờn và ướt lặng” của lúa, sắc trắng của cánh cò, màu yếm thắm và cái “giật mình” ngơ ngác của thôn nữ thanh tân thì mất hết cả cảnh quê, đời quê, nếp quê và cả hồn quê nữa.
“Chiều xuân” là bức tranh đẹp trong tình quê đằm thắm, dịu dàng. Hình ảnh cuối cùng đọng lại trong tâm trí người ngắm bức tranh “Chiều xuân” này là hình ảnh thôn nữ yếm thắm đang “Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”. Đó là hình ảnh của con người một nắng hai sương mà mỗi khi xa quê bao giờ ta cũng nhớ thương.
Viết nhân Ngày Phụ nữ Việt Nam 20 tháng 10 năm 2021.
Nguồn tin: HNV..
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn