NGÀN NĂM HÀO HOA THANH LỊCH
THĂNG LONG - HÀ NỘI
Không biết tự bao giờ đã truyền tụng những câu ca :
Đấy vàng, đây cũng đồng đen,
Đấy hoa sói trắng, đây sen Tây Hồ .
…
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An !
Từ lâu người dân Thăng Long - Hà Nội chẳng cần biết xuất xứ của những câu ca ấy, mà mặc nhiên coi những câu ca ấy nói về phẩm hạnh của mình, khẳng định, ngợi ca sự hào hoa, thanh lịch của mình với niềm tự hào chính đáng.
Vậy “người Tràng An” là người ở đâu mà trở thành chuẩn mực của vẻ đẹp thanh lịch, được người dân Thăng Long - Hà Nội ngưỡng mộ, đem mình sánh với họ ở tầm độ cao quý?
Tràng An nay là Thành phố Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, vốn là Thủ đô của Triều đại nhà Đường (618 – 907). Thuở ấy, Tràng An là một trung tâm thương mại Quốc tế, tập hợp thương nhân của hàng chục nước, là nơi hội tụ anh tài thuộc nhiều lĩnh vực. Họ đến Tràng An để trao đổi ý tưởng, kinh nghiệm sáng tạo. Văn hóa đời Đường có ảnh hưởng sâu rộng đến các nước láng giềng, song chính các nhà tư tưởng và văn hóa đời Đường cũng say mê tiếp thu những tư tưởng triết học, âm nhạc, vũ đạo, kiến trúc, kể cả cách chế tạo y phục, nấu nướng ẩm thực… của Ba Tư, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và tri thức của nhiều nước Trung Á khác. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đời Đường nói chung và của Thủ đô Tràng An nói riêng, có một hiện tượng được gọi là “Nghệ thuật hóa” : người ta đua nhau làm đẹp cho con người và cuộc sống. Kết quả là dân trí của người dân Tràng An nhanh chóng được nâng cao. Người Tràng An trở thành một kiểu mẫu thanh lịch. Chính họ đã vun đắp nên nếp sống lịch thiệp, tao nhã và nền văn hóa, nghệ thuật cao sang bậc nhất đời Đường.
Mùa Đông năm 938, ở trời Nam, sóng nước Bạch Đằng giang trào dâng rửa sạch tanh nhơ Bắc thuộc. Mùa Xuân năm 939, Ngô Vương định đô ở Cổ Loa tỏ ý tiếp nối quốc thống xưa của An Dương Vương. Rồi trải qua đời nhà Đinh cũng như đời Tiền Lê, thế và lực buộc các đấng Quân Vương phải lui về định đô ở Hoa Lư, nơi đó có địa danh xã Trường Yên. Không biết tự bao giờ Ninh Bình, Hoa Lư có địa danh Tràng An để ngày nay có khu du lịch Tràng An nức tiếng. Chỉ biết rằng thuở ấy đất trời, núi Nùng, sông Nhị là nơi Rồng cuộn, Hổ chầu, vừa cao, vừa sáng, muôn vật giầu thịnh, dân cư đông vui, đất đai trù phú, chờ con mắt xanh của đấng Minh Quân.
Mùa Xuân năm 1010, Đức Minh Quân Lý Thái Tổ ngự Long Chu về cố hương Đình Bảng để làm điều hiếu đễ, tri ân Tiên tổ. Ngài ghé thăm Đại La. Ý thắm mùa Xuân đơm hoa, đến mùa Thu trái chín, Ngài ban “Chiếu dời đô” (Thiên đô chiếu), dời đô Tràng An hoa Lư Ninh Bình về định Đô nơi có Rồng Vàng cuộn bay lên và gọi Kinh đô của Đại Việt là THĂNG LONG, cái tên đẹp của Con Rồng Cháu Tiên.
Từ thuở ấy, Thăng Long dấn thân vào lịch sử hào hùng để bừng lên hào khí Thăng Long. Thăng Long qua thăng trầm của lịch sử hơn nghìn năm, chung đúc khí hạo nhiên của dân Việt mà dịu dàng hình thành cốt cách hào hoa, thanh lịch của Người Thăng Long, Người Hà Nội, tự hào đối sánh trên tầng cao với sự thanh lịch của người Tràng An đời Đường bên Trung Quốc:
Đấy vàng, đây cũng đồng đen,
Đấy hoa sói trắng, đây sen Tây Hồ !
Liệu “vàng”, có quý hơn “đồng đen” ?, “Hoa sói trắng” có sánh được với “Sen Tây Hồ”? ! “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi. Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm, Chúng muốn ta bán mình ô nhục. Ta làm sen thơm ngát giữa đầm (Tố Hữu - Việt Nam máu và hoa). Đối sánh như thế cũng là cách để tỏ rõ ý chí tự cường, tự hào , bình đẳng giữa con người Thủ đô Đại Việt với con người của Thủ đô nhà nước Đại Đường. Còn thực chất, cốt cách hào hoa thanh lịch giữa Người Thăng Long - Hà Nội với Người Tràng An đời Đường không hề đồng nhất. Đâu dễ ngày một, ngày hai, ăn xổi ở thì, bắt chước đua đòi mà có ngay được cốt cách, phong độ hào hoa, thanh lịch cho người dân Thủ đô một quốc gia. Thăng Long - Hà Nội chung đúc khí thiêng hồn sông núi, khí hạo nhiên của Con Người Đại Việt hàng mấy ngàn năm mà thành vẻ Đẹp hào hoa thanh lịch.
Tả Thanh Thiên Ảnh: Sưu tầm
Sinh hoạt đô thị Thăng Long - Tranh: Sưu tầm
Người Thăng Long - Hà Nội mang cốt cách hào hoa, thanh lịch của người Đại Việt (Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi).. Các thế hệ trai thanh gái lịch của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm có một phẩm cách chung nhất, đó là : Anh hùng mà Nghệ sĩ, gian khổ mà vẫn hào hoa. Đó là những người lên ngựa cầm thương, xuống ngựa cầm bút; lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.
Có một chàng trai Thăng Long trăm phần trăm. Chàng sinh ở phường Thái Hòa (bây giờ ở sau Nhà máy bia Hà Nội). Đó là Ngô Tuấn. Có lần thày dạy vừa cùng Ngô Tuấn dạo quanh Hồ Tây, vừa dạy trò đạo nghĩa. Ông muốn Ngô Tuấn ngày ngày giỏi kiệt xuất nên đặt tên cho trò là Ngô Thường Kiệt. Lúc trưởng thành, Ngô Tuấn giỏi kiệt xuất, ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Tống hai lần, giữ yên bờ cõi. Ông được vua ban họ Lý, gọi là Lý THường Kiệt. Ông để lại cho đân tộc ta bài thơ “tuyên ngôn độc lập” nổi tiếng “Nam quốc sơn hà”.
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Thượng tướng Trần Quang Khải (1241 – 1294) là con trai thứ ba của Vua Trần Thánh Tông. Ông có công lớn trong hai cuộc
Kháng chiến chống giặc Mông Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử. Trần Quang Khải là người học rộng biết nhiều, một võ tướng lại là một thi sĩ có những vần thơ “sâu xa lý thú” (lời bình của sử gia Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí”). Muôn đời sau còn truyền tụng bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” hào sảng của ông:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) trước là môn khách, sau là con rể của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Ông có công lớn trong kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Đời Trần Anh Tông ông lập công lớn ở biên giới phía Nam, đươc phong chức Điện soái thượng tướng công. Là võ tướng từng luyện võ ở Sảnh võ đường Thăng Long, Phạm Ngũ Lão lại có cốt cách, phong độ nghệ sĩ. Sinh bình, ông có nhã thú đọc sách, ngâm thơ, và từng được mệnh danh là người văn võ toàn tài. Ông để lại một số bài thơ, trong đó có bài “Thuật hoài” nổi tiếng:
Hoành sóc giang san kháp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Những chàng trai Thăng Long hào hoa, thanh lịch, hào hùng như thế xuất hiện qua các thế hệ của ngàn năm Thăng Long, đời nào mà chẳng có.
“Trai thanh” đăng đối với “Gái lịch” như vế đối sơn thủy hữu tình, như Nùng Sơn đối với Nhị Hà của Đế đô Thăng Long. Khi kể về gái lịch đất Thăng Long, ta không thể quên Nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà Chúa thơ Nôm có cái tên rất đẹp Hương Mùa Xuân này sinh trưởng ở đất Thăng Long. Thân phụ, Thân mẫu nàng ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận. Nguyễn Hữu Tiến viết: “Nhà nàng trông xuống Hồ Tây”, lại chú thêm: “Sau, Xuân Hương có thiên ra ở thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố Nhà Thờ, gần đền Lý Quốc Sư. Tương truyền, Nữ sĩ có dựng bên Hồ Tây một ngôi nhà và gọi tên là “Cổ Nguyệt đường”. Đọc thơ Nôm của Nữ sĩ, ta thấy được tính cách thanh lịch đặc biệt độc đáo của Nữ lưu Thăng Long.
Bà Huyện Thanh Quan người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Phu quân của Bà là Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng, Thanh Trì, thuộc Thăng Long. Lưu Nghi đỗ Cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ hai), được bổ làm Tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), vì vậy dân chúng kính trọng gọi Lưu Nghi phu nhân là Bà Huyện Thanh Quan. Những bài thơ của Bà rất tao nhã, đài các, mẫu mực. Bà để lại những bài thơ nức tiếng như : “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Qua đèo Ngang tức cảnh” . .Dưới triều Tự Đức, kiệu từ Kinh đô Huế ra Thăng Long đón Bà vào Kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các Công chúa, Cung phi lễ nghi, thù tiếp. Bà là khuôn vàng thước ngọc trong đời sống giới quý tộc và trong cả văn chương. Muốn biết phụ nữ Thăng Long trang nhã, thanh lịch, đài các như thế nào, hãy soi vào tấm gương Bà Huyện Thanh Quan.
Kể sao cho xiết tài tử, giai nhân, anh hùng, nghệ sĩ thuộc các thế hệ trai thanh, gái lịch của Thăng Long - Hà nội ngàn năm văn hiến.
Khuê Văn các tại Văn miếu - Quốc tử giám
Khoa thi đầu tiên tại Văn Miếu - Quốc tử giám Tranh: Sưu Tầm
Thăng Long - Hà Nội ngàn năm xưa nay hào hoa, thanh lịch trong nết ăn nết ở, trong nếp sống và nếp làm ăn.
Từ một Làn
ámg ven sông Tô, trải ngàn năm lịch sử không ngừng lớn lên thành huyện, thành tỉnh, rồi vụt sáng lòa ánh sáng Kinh đô Đại Việt đầu thế XI. Thăng Long có Thành Nội, thành Long Phượng, có Đại La làm thành lũy chống giặc ngoại xâm và ngăn giặc lũ. Đê La Thành hơn 30 km bao lấy 61 phố phường thủ công, buôn bán và 13 trại rau, trại lúa, trại hoa của Kinh thành từ thời Lý, thời Trần, thời Lê . . . Thăng Long đất đai mầu mỡ, được phù sa Nhị Hà tưới tắm, con người khéo lam làm nên có đủ của ngon, vật lạ : “cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì”, “dưa La, cà Láng”, “ớt Đình Công, nhãn lồng làng Quang”, “ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây”, “giò Chèm, nem Vẽ, chuối Sù” . . . Bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông đắp đổi là bốn mùa rau quả tốt tươi, hoa khoe hương sắc và in đậm tên vào đất Thăng Long : Chợ Mơ, Chợ Bưởi, Chợ Dừa, Cầu Muống, Cầu Dền, Cầu Cau . . . “Tốt lúa đồng Ngâu, tốt trâu Yên Mỹ”, “mạ Đơ Bùi, mùi kẻ Láng”. . . Người Thăng Long hay lam, hay làm, sành ăn sành mặc. Cho nên hào hoa, thanh lịch không phái chỉ có ăn chơi. Khéo làm mà có cái ăn ngon, khéo may mà mặc đẹp cho thanh lịch, cao sang. Dải đất phù sa ven Sông Cái của Thăng Long tự cổ xưa xanh ngắt màu dâu để có “Một nong tằm là năm nong kén - Một nong kén là chín nén tơ”. Trại tằm tang Nghi Tàm thịnh vượng từ thời Lý:
Sù Gạ thì giỏi chăn tằm/ Làng La canh cửi, làng Đăm bơi thuyền.
Rồi từ đó mà có “Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng / May áo chàng vừa sóng áo em”. “Lụa Trúc, lĩnh Bưởi”; còn Trích Sài, Bái Ân là hai Phường dệt gấm nức tiếng.
Có lụa, có vải thì ắt sinh ra Hàng Bông, Thợ Nhuộm, Hàng Đào, Hàng Lam (nay là Hàng Ngang), phố Vải Thâm, vải nâu non Đồng Lầm (nay là Kim Liên). Kinh thành Thăng Long rực rỡ sắc mầu của áo tứ thân mấy nếp, của thắt lưng hoa lý, hoa đào . . . Thêm một đôi dép cong và chiếc nón quai thao nữa là các thiếu nữ Kinh kỳ đượm vẻ thanh tao, lịch lãm, “yểu điệu Thục Nữ”.
Anh hoa của biết bao thợ thủ công tứ trấn được thu hút về trung tâm Thăng Long để tạo nên băm sáu phố phường. Sành ăn, sành mặc, người Thăng Long lại giỏi dựng xây kiến thiết: “Thơm ngát hoa sói hoa nhài - Khôn khéo thợ thày Kẻ Chợ”. Từ 1049 Thăng Long đã có Chùa Một Cột như một tượng ý nghệ thuật sang trọng, thiêng liêng: đóa sen trắng nở trên mặt hồ nước biếc xanh. Trên đóa sen nghìn cánh tỏa mái chùa cong. Trong chùa chói lọi pho tượng Phật Quan Âm dát vàng. Quanh hồ vuông là hành lang chạm trổ; ngoài hành lang lại có hồ tròn, có phi kiều bắc vọi vào chùa; trước cửa chùa sừng sững hai tòa tháp lợp toàn ngói sứ.
Kinh thành Thăng Long được thợ khéo trang hoàng thật lộng lẫy, nguy nga. Cung Vua gồm nhiều tòa nhà lớn và nhiều khu vườn rất rộng, có tường thành hai ba dặm bao quanh. Sảnh đường có những hàng cột lim đen nhánh nổi vân do dùng lá chuối khô đánh bóng. Những hàng cột bóng tới mức trong gần như thủy tinh, phản quang lại khiến đi trong đó có cảm giác như đi trong một tòa nhà bằng pha lê và kim cương của các truyện thần thoại.
Thăng Long thanh lịch, hào hoa, cao sang là thế. Người Thăng Long tài hoa, người đất lề Kẻ Chợ khéo léo tay nghề đã ngàn năm tô điểm cho Kinh thành ngày thêm tráng lệ.
Tranh Tô Ngọc Vân
Ảnh: Sưu tầm
Người Thăng Long biết lam làm, khéo léo mà cũng biết vui chơi tao nhã, lịch lãm, lành mạnh, bổ ích.
Từ thời Lý, thời Trần, thời Lê . . . tinh thần thượng võ đã được đề cao. Thăng Long sớm có Sảnh võ đường. Vương hầu, quý tộc, tướng sĩ . . . đến đó cưỡi ngựa, bắn cung, luyện võ, đấu kiếm. Môn vật rất thịnh hành. Lò vật Mai Động nổi tiếng từ thời Hai Bà Trưng ; “Lò vật Quỳnh Đô, giỏ cua Cổ Điển” cũng là nơi đã huấn luyện nên những đô vật lừng danh cho xới vật Thăng Long. Trên sông Cái, sông Tô, sông Chèm, trên hồ. Lục Thủy thường diễn ra các cuộc thi bơi. Bơi lặn, đua thuyền trên Đông Bộ Đầu vừa là thú chơi thu hút bao trai tráng, vừa là việc rèn luyện để chuẩn bị cho bao trận thủy chiến anh hùng.
Người Thăng Long ngàn năm nay thượng võ và trọng văn. Thi văn, thi võ để chọn anh tài văn võ song toàn. Trung tâm Văn chương là ở Văn Miếu và trường Giám ; đến thời Nguyễn là Ngọc Sơn và Đài Nghiên, Tháp Bút “viết lên trời xanh” (TẢ THANH THIÊN).. Khán Sơn, Khán Đài từng được dựng lên ở trước Chủ tịch phủ bây giờ. Những cuộc bình văn được tổ chức ở trường Giám; những Đêm Thơ Trăng diễn ra ở Khán Đài. Khách Văn chương thỏa sức “nhả nọc phun châu”, vung bút, “hoa tay thảo những nét như phượng múa rồng bay”... Những cô gái đảm phủ Phụng Tiên bán rau quả, mua bút nghiên cho chồng theo nghiệp Nho, nuôi giấc mộng “kiệu anh đi trước, võng nàng theo sau”, “chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung” !
Một Thăng Long nho nhã tiếp với một Thăng Long sùng Phật chí thiện. Hội Chùa, Hội Đình, Hội Quán... có nguồn gốc xa xưa của những nghi lễ nông nghiệp. Có Hội Xuân, Hội Thu, “xuân thu nhị kỳ”, cho nên có “gái tháng Hai, trai tháng Tám”.
Hội Mùa Xuân mở ra tưng bừng hàng năm. Mỗi phường phố đều dựng cột đu; những tà áo, dây lưng đầy mầu sắc rực rỡ tung bay trong làn gió Xuân phơi phới. Có cả trò chơi kéo co, tung còn. Quả còn bằng bông, bằng lụa gấm, đính giải lụa ngũ sắc bay qua bay lại hai phía trai thanh gái lịch. Đó cũng là dịp để đôi lứa giao duyên. Mùng 5 Tết mở tiệc Khai Hạ, quan liêu, dân chúng nô nức đi lễ Chùa, dạo chơi danh lam thắng cảnh. Đêm Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Thăng Long mở hội đèn Quảng Chiếu ngoài cửa Quảng Phúc (cửa Tây, mé Hội trường Ba Đình), Muôn ngọn đèn lồng rực sáng đất trời. Các vị sư chạy đàn và cầu phúc.
Tháng Hai, Thăng Long dựng Đài Xuân biểu diễn chèo, tuồng ở sân khấu ngoài trời và chơi đủ các thứ trò vui khác gọi là “Bách hí”, cũng không bao giờ thiếu cờ tướng, cờ vây.
Tháng Ba, tiết Thượng tỵ là tiệc bánh trôi, bánh chay.
Tháng Tư mùng tám là lễ Phật đản, Tiết tắm tượng Phật. “Trở về hội Láng, trở ra hội Thày”.. Mọi người hân hoan thả cá, thả chim, làm lễ phóng sinh cầu phúc.
Tháng Năm có Tết Đoan Ngọ, dân chúng ăn gạo nếp và hoa quả, hái cây cỏ làm thuốc chữa bách bệnh.
Hội Mùa Thu mở ra với tiết trời thanh nhẹ. Tiết Trung Nguyên thì lập Hội “Vu Lan bồn” siêu độ vong nhân.
Khi nước Thu dâng đầy sông hồ, Thăng Long mở hội đua thuyền, bơi chải trên Đông Bộ Đầu và làng Đăm. Trời Thăng Long xanh trong thành một rừng diều sáo vi vu trước gió thu. Trung thu là hội trông trăng rằm phá cỗ của trẻ thơ và phụ nữ, tiếng trống rộn ràng, có múa sư tử và rước đèn. Mùa hoa cúc cũng là mùa của ca xướng, của những trò xiếc, leo dây, múa rối. Múa rối cạn quanh chùa quán, múa rối nước trên hồ đầm, bãi sông, bến nước..
Tháng Mười là Tết Cơm Mới, tiếp đó là mùa đi săn. Ba mươi Tháng Chạp, Thăng Long dựng nêu. Tăng đồ, Đạo sĩ vào Cung làm lễ tống ma quỷ. Dân gian nổ pháo, dâng cơm rượu cúng Tổ tiên; đêm trừ tịch có diễn tuồng chèo. Giao thừa, trai gái nhà nghèo, quanh năm không cậy được mối lái, không sắm được sính lễ, yêu nhau cứ việc lấy nhau, thành vợ thành chồng đúng vào thời khắc thiên liêng ấy của đất trời theo phong tục cổ. Đó là một phong tục nhân ái không hề trái với nếp sống thanh lịch của người Thăng Long.
Mùng Một, Mùng Hai Tết là ngày thờ cúng Tổ Tiên, ngày của những lời chúc tụng đầu năm mới. Mọi tấm lòng cởi mở với nhau trong tình thương mến.
Người Thăng Long - Hà Nội tài hoa, nghệ sĩ làm nên dòng tranh Hàng Trống độc đáo, nét vẽ điều phối cùng in gỗ với những sắc màu tươi tắn, rực rỡ. Những bức tranh Hàng Trống đẹp sang trọng kinh điển: tranh Tố Nữ, tranh “Lý ngư vọng nguyệt”, tranh hổ ... Giữa tranh và đời có khi nhập hồn vào nhau : có chàng Tú Uyên si tình đất Bích Câu mua được ở Cầu Đông - Tô Lịch bức tranh Giáng Kiều, và Người Đẹp từ trong tranh bước ra thành người thật, kết đôi với chàng ...
Thăng Long từ thời Lý đã có đội múa, đội nhạc chuyên nghiệp phục vụ Cung đình và dân chúng Kinh thành. Vũ nữ Thăng Long nhuần nhị nét thanh tân múa khúc Hồi Phong, nhíu nét mày cong hát bài Thịnh Vận. Dàn nhạc đủ bộ dây, bộ hơi, bộ gõ với đàn Cầm, đàn Tranh, Tỳ bà, tiêu sáo, trống cái, trống con, trống cơm, não bạt, mõ, phách . . . Tiếng đàn bầu nỉ non, văng vắng, ngân nga trong Cung điện triều Trần. Thăng Long Triều Lý có nàng Ả Đào nhan sắc chim sa cá lặn, giọng ca xếp Đệ nhất Giáo phường. Và điệu hát Ả Đào rất Việt Nam được sinh thành từ Thăng Long ngày đó, biến đổi qua thời gian, cho đến nay vẫn làm đắm say lòng
*
* *
Thăng Long - Hà Nội tự ngàn xưa đến nay đã hội tụ, kết tinh khí thiêng sông núi sinh thành lớp lớp những Anh hùng cái thế, những Nghệ sĩ tài hoa, những Học giả uyên bác, những con người hào hoa, thanh lịch. Ngày nay, Đảng và Nhà nước hết sức chăm lo phát triển kinh tế làm cho dân giầu, nước mạnh, có thể sánh vai với cường quốc năm châu, đồng thời ưu tiên phát triển chiến lược con người kế thừa, tiếp nối tinh hoa Văn hóa Dân tộc, làm sáng lên vẻ Đẹp của Con người Việt Nam hào hoa, thanh lịch, Anh hùng mà tuyệt vời Nghệ sĩ.
Hà Nội, Ngày 7 tháng 10 năm 2024
Nhà nghiên cứu, phê bình Văn học
ĐẶNG TƯƠNG NHƯ