Đỗ Trung Minh
Nguyên quán: Vĩnh bảo, TP Hải Phòng;
Thường trú: Q. Cầu Giấy, TP Hà Nội
VỀ MUỘN VỚI SEN
(Tặng người dệt lụa Hà Đông)
Hạ chưa cháy hết mình
thu đã về Hà Nội
Phượng vẫn kia thắp nến tháp phong sương?
Anh mê mải với tơ vàng Vạn Phúc
không biết Hồ Tây sen đã kết hạt cườm
Giấc mơ trưa vẫn chuông chùa Trấn Vũ
Bóng sâm cầm chấp chới sóng Hồ Tây
Thảng thốt gió vin nhịp chày Yên Thái
Sao anh về với sen… muộn thế này?
Mê mẩn tay em Hà Đông dệt lụa
Thoi đưa ngang đuôi mắt liếc ngang
Nong dâu nõn nà con tằm căng mọng
Anh làm sao xa được mịn màng
Mê mẩn lụa quên nụ đời e ấp
Hương nồng nàn đâu đó mờ sương
Tà khép mở thẹn thùng thôn nữ
Sen Tây Hồ thơm bát ngát mặt gương
Ấp búp hồng thổn thức trong tay
Cánh kì ảo giấu ngạt ngào ăm ắp
Anh đón trọn hương trinh nguyên của đất
Mộng mị mây trời mộng mị hoàng hôn
Anh bù cho sen “nắng quái chiều hôm”
Cho anh giữ nét em vĩnh hằng trong lụa
anh nối tơ vàng vào ngó xanh duyên nợ
Mãi óng ả cánh sen Vạn Phúc lụa là.
Hà Đông, tháng Năm - Hồ Tây, tháng Bảy, 2016
VÃN CẢNH CHÙA Lôi Âm (*)
Bồng bềnh mây trắng Lôi Âm
Thảm xanh vừa nở lặng thầm Mẫu đơn
Hồ Yên(**) soi thấu vuông tròn
Sân si đeo đẳng càn khôn cõi người
Đăng sơn vãn cảnh Bồng Lai
Xả buông bao nỗi trần ai đãi đằng
Sườn nghiêng hương dứa rải vàng
Tím mơ sim gửi mùa sang nắng hè
Lối mòn theo dấu người đi
Thông reo đón gió hương về thành mây
Hành hương tiên cảnh hôm nay
Phật duyên giác ngộ vần xoay nhọc nhằn
Chân cài giữa đá nghìn năm
Lối xưa tu hạnh còn hằn rêu phong
Thanh bần những hạt sương trong
Ngọc lan tỏa ngát thinh không tịch hằng
Nghiêng mình tựa chốn ngộ năng
Dưới kia vẫn cõi hồng trần đa đoan
Thoáng thảnh thơi, thoáng thanh nhàn
Vô thường thoắt đã đón ngang lối về
Thiền tâm thanh tẩy u mê
Hẹn mùa sim nở lại về Lôi Âm
Đại Yên, Hạ Long, tháng Tư, Nhâm Dần 2022.
……………………………………………………
(*) Chùa Lôi Âm Tây trúc trên núi Lôi Âm tương truyền được xây dựng đầu TK XV
.(**) Hồ Yên Lập trên lối vào núi chùa Lôi Âm là hồ nhân tạo lớn nhất Quảng Ninh
LẮNG VÀO CÕI ĐÁ
Từ lúc viên bi lăn vào khúc khích cười,
Rồi cãi nhau chí chóe
Những ngập ngừng gang tay con trẻ
ngắn dài đắn đo…
Đến khi đặt tấm bia trước mộ ông cha
Đá gắn với đời ta
chưa bao giờ xa cách
Đá cũng kiếp trầm luân
Từng ngạo nghễ đỉnh non, từng lăn vùi vực thẳm
Vẫn hóa thành vôi cho thắm duyên đời!
Ngàn năm đón sóng ngoài khơi
Hòn Trống Mái
bồng bềnh nụ hôn chưa gặp?
Những Vọng Phu niềm nhớ mỏi mòn
Đá Vợ đá Chồng say sóng Quy Nhơn
Đêm vẫn khóc dòng trăng Hàn Mạc Tử
Tiếng vọng âm dương từ hang Trinh Nữ…
Đá làm bàn cho Người dịch sử (*)
Vinh quang muôn thủa nước non này
Đá thơm thảo Vựa Cơm, Vựa Tiền, Bầu Sữa…
Chờ người về Chùa Hương nương cõi trả vay
Ai đã lắng vào cõi đá?
Định hình vĩnh cửu, phù du?
Ai từng nghĩ đá là muôn thủa
Còn không nước chảy đá mòn?
Đá vẫn âm thầm tiếng vọng nỉ non
Em ơi em. Hãy áp tai vào mát lạnh
Thấy không em giọng đá thì thào!
… Xin lắng về âm thầm cõi đá
Nghe âm vực ngoài vùng ồn ã
Đá sẽ kể em nghe một cõi hữu tình
Lan Hạ, Hè 2022
THANH MINH VỀ NGHI XUÂN
Thanh minh về lại Nghi Xuân
Cỏ non bối rối bước chân người về
Giấu trong gió thoảng lời thề
Giọt hoa (1) còn đọng trăng khuya tiếng đàn
Tiên Điền năm ấy hợp- tan
Ảo mờ nấm cỏ “tro tàn giấy bay”(2)
Hồn ai lưu lạc bấy nay
Để cho dòng lệ đắng cay khôn cùng
Quỳnh, Giao(3) huyền ảo một vùng
Thiên tài, quốc sắc(4). Giá đừng gặp nhau!
Vầng trăng ước, giấc chiêm bao
Đã nhiều nước mắt cứa vào giai nhân
Thanh minh thăm cỏ Nghi Xuân
Ngắt xanh như thể ngàn năm ẩn vào
Mượt mà như mọi ước ao
Xót thương để cỏ gửi vào tháng năm
Giữa hoa vẫn dáng Kiều- Kim
Tử sinh Từ Hải uy nghiêm tượng đài
Vô thường, vãi Giác trong mây
Hoạn Thư, mụ Tú chốn này nẻo kia…
Tiên Điền lừng lững tấm bia(*)
Tiếng đàn xưa ánh trăng khuya vẫn còn
Tiết Thanh minh 2000
………………………………………………………
-1,2,3,4 : Lời thơ , ý thơ trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du;
(*) Bia mộ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh
HƯƠNG BỒ KẾT
Ấy là lần đầu tiên
Anh đặt vào tóc em
Một nụ hôn thảng thốt
Rồi không sao quên được
Hương bồ kết ban đầu
Cái đêm ngồi bên nhau
Trăng vàng trong khóm lúa
Tóc em mềm như lụa
Vương bồ kết vào anh
Suốt chiều dài chiến tranh
Có bao điều còn mất
Em ơi hương bồ kết
Bây giờ còn nôn nao
Sao không cho gặp lại
Hương bồ kết hôm nào
Đã đành không thể nữa
Có yên lòng nơi đâu
Cơn sốt rừng xanh xao
Áo lính còn vương khói
Bước chân người trở lại
Đâu rồi làn hương xưa
Có lần gặp như mơ
Sau giờ em lên lớp
Bụi phấn vương trên mi
Mớ rau chiều đẫm nước
Chẳng lần nào hẹn trước
Chỉ tình cờ thế thôi
Đũa giờ đã thành đôi
Bao ánh nhìn khe khắt
Chỉ ngọn gió vô tư
Nồng nàn hương bồ kết
Vì sao không thể được
Vầng trăng xưa đâu rồi?
Vĩnh Bảo, 1976
ĐỒNG ĐỘI
Thân tặng đồng đội của tôi, E 24 F10 QĐ3
Nửa thế kỉ đi qua
vẫn khôn nguôi nỗi nhớ
Đồng đội tôi, người ở người về!
Điều có thể giờ thành không thể
Để giọt bốn mùa
trên mắt long lanh
Thời thanh xuân vắt qua chiến tranh
Đồng đội tôi là những người ra trận
Gửi lại mộng mơ và hơi ấm bàn tay
Chiếc lá rơi trên vai mẹ hao gầy
Trường Sơn hoang sơ
núi dầm dề mưa
Trượt dốc chia nhau từng hạt muối
Rừng xòe tán mấy ngàn năm tuổi
Thổn thức dấu chân học trò
mười tám đôi mươi
Con vắt lá bám ngang nụ cười
Bình thản quệt ngang vệt máu
Qua trạm giao liên
đào bếp Hoàng Cầm
Tay sải vào đêm
lấy măng, nhặt củi
Dép cao su xiết mòn vách núi
Mắc võng qua vành trăng khuyết
đung đưa
Rét buốt từ xương là cơn sốt không chờ
Ủ ấm thâu đêm là vòng tay đồng đội
Mày mày tao tao là câu thường gọi
Ngẩn ngơ nhớ nhà là lúc chiều buông
Thuộc lòng thơ nữ sĩ Xuân Hương
Tự đặt bài vè trêu nhau phát khóc
“Lính Hà Tây gọi tôm là tép
Phú Thọ kêu châu chấu cào cào
Ơ! nơi nào rửa khoai cầu tõm?
Trai Hải Phòng “ dậm” cảng như ao…”
…Từ bao giờ, cứ thế để thương nhau!
Những tên đất không thể quên
Đắc Tô, Tân Cảnh,
Đường 14, làng Te, Đắc Rơ Cót, Kon Tum
chốt đỉnh cao Sáu không một, Sáu mười lăm
bom xuyên pháo chùm
đất tơi thành bột
Thôi mày vào hầm,
để tao ra phía trước
Chiều chỉ còn mắt ướt chiếc ba lô
Nửa thế kỉ đi qua khôn nguôi nỗi nhớ
Đồng đội tôi người ở, người về!
Hải Phòng, 4- 2000
LY NÀY…
Ly này ta uống với ta
Rượu quê lá chuối(*) tháng ba bung chồi
Thương cho rau muống tháng mười
Cánh cò đau đáu dưới trời heo may
Rót thêm giọt đắng giọt cay
Trầm luân cõi thực chuỗi ngày đói no
Dàn quân trên một chiếu cờ
“Tốt đen” “tốt đỏ” vẫn là tốt thôi
Nước cờ nỡ “thí” mất rồi
Chuối xanh muối trắng mặn mòi đưa men
Ly này anh uống với em
Đâu cần phải có “nắm nem”(**) mới là…
Cầm tay gần, ngẫm đường xa
Lẽ nào duyên phận chỉ là gió mây
Ly này chúc với cỏ cây
Ngàn năm xanh thẳm để say đất trời!
Hà Nội, 9-2021
……………………………………….
(*) Rượu tự nấu nút chai bằng lá chuối khô
(**) Ca dao: Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò