Thi hóa truyện cổ nước Việt

Thứ tư - 26/07/2023 23:45
Phảng phất chất sử thi, lối kể truyện mộc mạc dân dã của thơ Lục bát truyền thống, đó là những cảm nhận của tôi khi được đọc Tập thơ “Truyện cổ nước Việt” do Phạm Thị Hồng Thu sáng tác, phát hành vào tháng 7-2023.
Thi hóa truyện cổ nước Việt

       Chu Minh Khôi

     Phạm Thị Hồng Thu là Giáo viên đã nghỉ hưu, hiện sống tại Hà Nội, là Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Trước đó, chị đã từng xuất bản nhiều tác phẩm thơ, như: “Về miền nhớ”, “Sắc chiều”, “Trái tim thì thầm” đều được cấp phép bởi Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam. Ở tập thơ mới mang tên “Truyện cổ nước Việt” (NXB Phụ nữ Việt Nam) dày 228 trang này, Phạm Thị Hồng Thu “trình làng ”54 tác phẩm” chủ yếu là thơ lục bát.

    Tôi đọc một mạch tập thi phẩm “Truyện cổ nước Việt” trong sự ngỡ ngàng mà đầy tâm đắc. Ngỡ ngàng là bởi, tuy đã từng có những truyện cổ tích được một vài tác giả khác chuyển thể thành thơ, nhưng đó chỉ là những thi phẩm đơn lẻ. Có thể nói đây là lần đầu tiên, hầu hết các truyện trong kho tàng cổ tích, sự tích dân gian của Việt Nam đã được sáng tác lại dưới thể loại thơ. Tâm đắc, bởi đây là một hành trình sáng tác có thể nhận định rằng “rất công phu”, mà từ trước tới nay, hiếm thấy tác giả nào ở nước ta làm được.

Trong Tuyển tập thi phẩm “Truyện cổ nước Việt”, đọc thấy ở đây lối kể truyện mộc mạc, chân phương như ca dao tục ngữ. Đặc biệt trong những bài thơ chuyển thể cổ tích, sự tích như: Thần trụ trời; Sự tích cây lúa; Con rồng cháu tiên; Sơn tinh Thủy tinh; Bánh chưng bánh dày; Chử Đồng Tử; Sự tích trầu cau; Sự tích quả dưa hấu; Sự tích Hồ Gươm; Sự tích người làm chúa muôn loài; Sự tích bàn chân lõm; Sự tích Táo quân; Tấm Cám; Cóc kiện trời; Sự tích cây nêu; Sự tích ông Ba Mươi; Cây khế; Sự tích cái chổi; Sự tích ông bình vôi; Sự tích con tằm; Sự tích con chim cuốc; Sự tích con khỉ; Sự tích Đầm Mực; Chú Cuội; Sự tích chiếc kèn môi; Sự tích chim tu hú; Sự tích sông Nhà Bè; Cây tre trăm đốt; Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Mồ côi xử kiện; Đeo chuông cho mèo; Trí khôn của ta đây; Đẽo cày giữa đường; Thầy bói xem voi; Lợn cưới áo mới; Thà chết còn hơn; Con rắn vuông; Sao đắt thế; Thi vẽ nhanh; Kiến giết voi…

 

IMG 1806
 

Kể chuyện bằng thơ, Phạm Thị Hồng Thu chuyển thể gần như nguyên vẹn các chi tiết trong kho tàng văn học dân gian được người xưa truyền lại, sang thơ lục bát giúp cho độc giả ở độ tuổi thiếu nhi dễ đọc, dễ thuộc lòng. Người lớn đọc cũng sẽ thấy thuận tai.

Trong thi phẩm “Thần Trụ Trời”, tác giả mở đầu mộc mạc:
“Thuở xưa tăm tối vô ngần
Muôn loài chưa có, bỗng Thần hiện lên”.
Miêu tả sức khỏe và những hành động phi thường của Thần Trụ Trời, tác giả sử dụng thủ pháp biến hiện, tạo nên những hình ảnh đẹp khác lạ. Tác giả niêm yết màu xanh vào đồng hóa chân thần với núi, khiến ta liên tưởng đến đôi chân của thần vô cùng đồ sộ và vĩ đại:
“Mỗi chân một núi xanh rì
Vươn vai đứng dậy, uy nghi đội trời.
Đào khuân đất đá không ngơi
Đắp nên cột vững, chống trời ngất cao”.
Những hình ảnh “trời tròn”, “đất vuông” trong truyện vốn phản ánh quan niệm của người xưa về vũ trụ, được thi hóa nguyên vẹn:
“Trời tròn như bát, như vung,
Úp xuống đất rộng muôn trùng trước sau”.
Ở Thi phẩm “Con Rồng cháu Tiên”, kể chuyện “Lạc Long Quân” chiến thắng các loài yêu tinh, lập nên bờ cõi yên bình, Ngài còn tiếp tục công cuộc dựng nước bằng những hành động yên dân, khuyến nông:
“Dạy dân cách sống nghĩa tình,
Làm nhà sàn ở dân mình đỡ lo”
Và:
“Dạy trồng lúa, sống ấm no
Dân ơn, dân quý dựng cho lâu đài”.
Kể về hành trình chia ly giữa Rồng và Tiên, cũng là sự “hy sinh” hạnh phúc cá nhân để mở mang bờ cõi, bảo vệ rừng vàng và biển bạc, dựng nước và giữ nước lâu bền.
“Năm mươi con ở rừng sâu,
Năm mươi theo sóng bạc đầu biển khơi
Chia nhau cai quản muôn nơi,
Dựng xây gìn giữ đời đời nước non”.
Với thi phẩm “Bánh chưng, bánh dày”, tác giả tái tạo ngày hội tưng bừng rực rỡ:
“Phong Châu mở hội sớm mai
Trống chiêng cờ quạt rộn tai vang lừng
Bà con thôn bản khắp vùng,
Kéo về đông nghịt tưng bừng hân hoan.
 
Nem công chả phượng đầy bàn
Nhưng vua dừng lại bánh chàng Lang Liêu”.

Sự kết tinh của hồn vía đất đai, sức lao động của con người, tình đoàn kết xóm làng, tính cố kết cộng đồng dân tộc được kết tụ thành chiếc bánh chưng thảo thơm hương vị:

“Bánh chưng tượng đất rõ ràng,
Lá dong xanh mướt gói càng chặt tay,
Thơm lừng mĩ vị cỏ cây,
Muôn loài đùm bọc sum vầy bền lâu”.
Không chỉ kể chuyện, trong nhiều thi phẩm, Phạm Thị Hồng Thu có thêm những câu luận, từ đó làm sáng tỏ những hành động, ngợi ca những tâm hồn cao thượng, đẹp đẽ của người xưa.
Như:
“Phong tục đẹp có từ đây
Nhận duyên chồng vợ sum vầy bên nhau
Trầu là vợ, chồng là cau
Em là vôi – đá muôn sau vẫn nồng”
                         (Sự tích trầu cau)
Hay:
“Rồng Tiên gốc gác dân mình,
Chung bọc trăm trứng đinh ninh một lòng,
Giữ gìn gấm vóc non sông.
Nhớ ngày thờ cúng Tổ tông tìm về”
              (Con rồng cháu tiên)
“Chăm nghề nông ấm no luôn.
Vua Hùng đã chọn người khôn, dân nhờ.
Chắc Lang Liêu cũng không ngờ,
Phong tục tốt đẹp đến giờ còn lưu”
                   (Bánh chưng bánh dày)

Cảo thơm lần giở, ta cảm nhận trong Tuyển tập của Phạm Thị Hồng Thu chất sử thi hào sảng ẩn hiện trong nhiều tác phẩm: Thánh Gióng; Mỵ Châu - Trọng Thủy; Huyền Quang; Sự tích thành Lồi; Khổng Lồ đúc chuông; Trạng Hiền; Em bé thông minh; Người thiếu phụ ở Nam Xương; Từ Thức…

 

Với thi phẩm “Chử Đồng Tử”, tác giả thi hóa câu chuyện tình kỳ lạ bậc nhất của nước Văn Lang xưa, giữa nàng công chúa Tiên Dung - con vua Hùng và chàng trai nghèo khổ - đến một chiếc khố cũng không có để mặc, phải vùi mình vào trong cát giấu đi thân thể. Tiên Dung rất thích thung thăng tìm nơi hoa thơm cỏ lạ. Đến vùng Chử Xá đẹp trời, nước xanh, gió mát thuyền trôi lững lờ, trước cảnh đẹp sông nước hữu tình, công chúa dừng lại và tắm:
“Quây màn tắm táp người xinh,
Nước vừa dội xuống, thất kinh bàng hoàng.
 
Chàng trai dưới cát rõ ràng,
Thẹn thùng nàng hỏi họ hàng, tuổi tên.
Trời đà sắp đặt xe duyên,
Đưa đồ đẹp mặc, mời thuyền tiệc hoa”.
Hình ảnh đạo Phật đã được truyền đến ngay từ thuở bình minh của dân tộc cũng được kể trong thi phẩm:
“Gặp Phật Quang chốn núi xa,
Một năm chăm học thật thà thầy thương.
Chia tay, Đồng Tử lên đường,
Thầy cho nón, gậy che sương khi cần”.

Thi phẩm “Chử Đồng Tử” kết thúc bằng hình ảnh linh dị đầy cảm khái, thể hiện khát vọng bay lên của muôn đời người dân nước ta:

“Nửa đêm giông gió bất ngờ
Tiên Dung, Đồng Tử, dinh cơ về trời.
Chỉ còn bãi đất trống thôi
Tự Nhiên, Nhất Dạ muôn đời còn đây”.

Trong thi phẩm “Huyền Quang”, “Ngày xưa xứ Bắc, thời Trần/Quốc sư tài giỏi muôn phần - Huyền Quang”,  hình ảnh một vị quốc sư sinh ra từ nhà nghèo khó, nhưng trí tuệ cao rộng, đã vượt qua mọi nghịch cảnh để học thành tài. Đến khi đỗ đạt, mọi chuyển xoay ngược một trăm tám mươi độ:

“Bao người dòm ngó tân khoa
Con quan, công chúa thiết tha muốn chàng”
Và rồi Huyền Quang ngộ ra:
“Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên”
Bước lên đỉnh cao danh vọng, nhưng Huyền Quang chối từ điện ngọc giàu sang, chối từ những lời mời kết duyên cũng những công chúa xinh đẹp, con nhà quyền lực. Ngài buông xả mọi ham muốn trần tục, quyết trí đi tu, để rồi đạt đạo, được người dân cả nước tôn kính:
“Trúc Lâm thiền viện trông coi,
Biết bao Phật tử kính người thầy hay”.
Để thử xem Huyền Quang đã thực sự “sạch làu” ham muốn trần tục hay chưa, vua ban cho Sư một mâm cỗ mặn. Sự đã dùng sự đạt đạo chuyển hóa không chỉ lòng người, mà còn chuyển hóa được vạn vật:
“Sư nhìn cỗ mặn, khấn ngay:
- Nếu tôi trong sạch hóa chay, ơn trời!
Bỗng trời mù mịt, hóa rồi
Cỗ chay thanh sạch, người người reo vang”.
Quả thật là:
“Huyền Quang tâm sáng tuyệt vời,
Trúc Lâm Thiền Phái muôn đời còn lưu”.
Tích chuyện Trâu vàng hồ Tây cũng là một câu chuyện hay đầy chất linh dị. Tác giả viết:
“Thời nhà Lý có Khổng Lồ
Đi tu lúc trẻ, vô bờ sức trai.
Thích chu du khắp trong ngoài,
Hành trang gậy, đãy cả hai nhiệm màu”.
Trong thi phẩm, tác giả vẫn dùng danh xưng “Khổng Lồ” cho nhân vật, nhưng trong sử sách người ta cho rằng đó là chuyện về Thiền sư Minh Không, được nhiều làng nghề đúc đồng ở nước ta tôn làm tổ nghề.
Câu chuyện nhà sư sang gặp vua nhà Tống bên Trung Hoa để xin đồng, được tái hiện:
“- Mình thần, xin đãy nhỏ thôi.
Vua nhìn đãy tưởng đồ chơi, xem thường:
- Có lấy trăm đãy trẫm nhường.
Sai quan coi giữ dẫn đường vào kho”.
Sư Khổng Lồ chỉ dùng một chiếc đãy nhỏ mà đựng được hàng chục tấn đồng của nhà Tống. Khi qua sang Triều, trên sân có tượng trâu bằng vàng, quan nhà Tống đùa:
“- Trâu vàng, Hòa thượng cần chưa?
- Tôi đâu dám, chỉ xin vừa đãy thôi”.
 Sư Khổng Lồ đem đồng về đúc Thiên Nam Tứ Đại khí:
“Báo Thiên vòi vọi tháp đua mây trời.
Tượng Phật sáu trượng tuyệt vời.
Đỉnh to phải đến cả mười người ôm”

Riêng bảo khí thứ tư là chiếc chuông to khổng lồ, khi đánh tiếng vang xa đến tận kinh đô nhà Tống. Trâu vàng trong sân của nhà Tống nghe tiếng chuông, tưởng mẹ gọi, liền chạy sang nước Đại Việt. Lo ngại tiếng chuông đồng mới đúc sẽ thu hút hết vàng của bốn phương chạy đến, sư Khổng Lồ bèn ném chiếc chuông xuống Hồ Tây. Từ đó đến nay, dân gian còn lưu truyền rằng, dưới đáy Hồ Tây còn chiếc chuồng đồng do sư Khổng Lồ đúc thời xưa:

“Quai chuông cũng nổi giữa hồ
Kim Ngưu từ bấy đến giờ mang tên.
Khổng Lồ dốc sức lập nên
Nghề đồng muôn thuở không quên thờ Thần”.
Trong “Sự tích thành Lồi”, sử thi kể lại hậu cuộc hôn nhân giữa vua nước Chiêm và Huyền Trân công chúa của nước Đai Việt. Huyền Trân sang làm hoàng hậu của nước Chiêm chỉ trong thời gian rất ngắn, thì vua Chiêm qua đời, theo luật lệ Chiêm quốc, lẽ ra hoàng hậu sẽ bị hỏa thiêu theo vua. Nhưng, công chúa Huyền Trân đã được cứu về nước đại Việt, khiến vua Chiêm mới nối ngôi nổi giận, sai tướng Lồi đem quân đòi lại hai châu Ô, Rí. Vua Trần cử tướng Đoàn Nhữ Hài vào giữ đất. Vừa muốn giữ được đất, mà không gây chiến tranh giết hại sinh linh, Đoàn Nhữ Hài gửi thư sang, giao ước với tướng Lồi:
“Thành cao hơn sẽ thắng liền
Bên thua nhường đất, không phiền sinh linh”.

Tướng Lồi tự tin vì mình đến trước, đã đắp thành rất vững, nên chấp nhận giao kết mà Đoàn Nhữ Hài đưa ra. Nào ngờ, đêm đến, nhìn sang bên phía quân Đại Việt thấy “Tường cao mấy trượng, có đài vọng lâu/ Cửa nhà san sát tươi màu/ Ngựa voi, quân lính ở đâu bạt ngàn”.

Tướng Chiêm đã bị thua bởi sự mưu trí của quân dân Đại Việt, đây cũng là chiến thắng trong tinh thần “bất bạo động” của quốc gia Phật giáo thời Trần Nhân Tông làm Thái Thượng hoàng.
“Tướng Lồi đâu biết mưu dày,
Lũy thành... bện cỏ, thuốc này điểm tô.
 
Ngày nay dấu vết sờ sờ
Thành Lồi đắp dở địa đồ Thừa Thiên.
Dương Xuân, Nguyệt Biều chẳng quên
Thua đau đấu trí của viên tướng Lồi”.
Trong nền văn học nước ta, Đại thi hào Nguyễn Du từng chuyển thể một tác phẩm văn xuôi thành thơ. Tuy nhiên, khác với truyện gốc “Đoạn trường tân thanh”, cụ Nguyễn Du viết “Truyện kiều” là cả một quá trình sáng tạo từ nội dung đến ngôn ngữ, tạo nên cốt cách đặc biệt thuộc hàng “mai cốt cách, tuyết tinh thần”, khiến cho câu truyện về cuộc đời Thúy Kiều được nâng tầm thành danh tác bất hủ. Không chỉ vậy, với ngôn ngữ đậm chất bác học, sử liệu uyên thâm, Nguyễn Du đã tạo những câu thơ trở thành viên ngọc sáng ngời, muôn hồng nghìn tía.
Khi đọc Tập truyện thơ “Truyện cổ nước Việt” của Phạm Thị Hồng Thu, nhận thấy tác giả có lẽ vì muốn “chung thành” với nguyên tác văn xuôi, nên hầu như không sáng tác thêm những chi tiết mới ở trong mỗi câu truyện. Tuy vậy, ta đã bắt gặp trong dó rất nhiều câu thơ lấp lánh mang âm hưởng thơ của Nguyễn Du. Có những câu thực sự đã thoát được ra khỏi lối kể chuyện thuần túy, đã thi hóa trong không gian ước lệ, tượng trưng, trừu tượng… để thành những vần thơ lấp lánh:
“Năm mươi con ở rừng sâu
Năm mươi theo sóng bạc đầu biển khơi”.
                (Con rồng cháu Tiên).
“Anh vượt bao núi bao đèo
Sông sâu bên đá buồn đeo nặng người”.
                (Sự tích trầu cau)
“An Tiêm chí vững chẳng sờn
Những rau quả dại, tiệt nguồn sống chăng?
Hái mò cỏ, ốc nhì nhằng
Cá nhiều không lưới, chim đằng bay xa”.
                   (Sự tích quả dưa hấu)
“Thêm người vượt núi băng đèo
Đôi chân đỡ mỏi, gieo neo bớt dần
Phật nhìn thấy đã hóa thân
Bồ đề cổ tự bỗng ngân chuông chiều”.
                        (Sự tích ông bình vôi)
“Khổng Lồ lên núi ném chuông
Hồ Tây sóng lặn tiếng buông khắp làng”
               (Khổng Lồ đúc chuông)
“Em bưng nghiên mực cao lên
Anh cầm bút vẩy mực trên nền trời”
              (Sự tích Đầm mực)

Điều đáng ghi nhận, tác giả Phạm Thị Hồng Thu đã cố gắng tiếp cận những thủ pháp thơ của tiền nhân, cùng với đó là chất sử thi hào sảng và lồng lộng trong mỗi con chữ, đã nâng chất cho thể loại truyện kể dân gian, vốn mộc mạc như người dân nghìn đời xứ sở Đại Việt. Đó là điều rất đáng ghi nhận trong Tác phẩm mới nhất này của nhà thơ .
CMK




 Một tâm hồn phức điệu qua tập thơ Truyện cổ nước Việt
của Phạm Thị Hồng Thu

 

   Thái Thị Hải
    Cựu giáo viên Văn Trường THPT Lomonoxop

 

Đọc Truyện cổ nước Việt - tập truyện thơ dành cho thiếu nhi của Phạm Thị Hồng Thu (Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam,  năm 2003), là người từng làm công tác giáo dục trong trường phổ thông, tôi thấy sáng tác của Hồng Thu chứa đựng một tâm hồn phức điệu: Có ba nhân cách trong một con người và nhân cách nào cũng khiến tôi cảm động và yêu mến. Đồng thời nó bộc lộ sự phong phú, uyển chuyển trong cảm hứng và nghệ thuật của tác phẩm thơ.

 Trước hết, tập truyện thơ của Hồng Thu đã làm toát lên nhân cách của một người mẹ Việt Nam. Đã là người mẹ thì yêu thương con là bản chất tự nhiên, tất nhiên. Song, ở Hồng Thu, độc giả mà cô hướng tới nhiều hơn đó là những trẻ em nghèo còn nhiều thiếu thốn, vất vả cả vật chất lẫn tinh thần. Đó là những trẻ thơ ở các vùng nông thôn hẻo lánh, nơi rừng núi xa xôi, thiếu sách giáo khoa, vở viết, đồ dùng học tập, phương tiện truyền thông quá nghèo nàn: không truyền hình, không máy tính, không điện thoại thông minh. Nhà ở của các em cách xa trường hàng mấy cây số, muốn đến lớp phải trèo đèo, lội suối, băng rừng... Trường học chỉ là mấy nhà nứa, nhà tranh sơ sài, một thầy hoặc một cô giáo phải dạy mấy lớp khác nhau (lớp 1, lớp 2, lớp 3...) trong một phòng học nhỏ, cheo leo trên sườn núi. Có nhiều em muốn được học phải trú lại trường hàng tuần chỉ về nhà một ngày lại lên, để xin bố mẹ lương thực, thực phẩm, mà đồ ăn cũng chỉ có ngô và rau cải là chính.

 Vì thế, những truyện thơ chuyển thể từ truyện cổ dân gian Việt Nam của Hồng Thu đều vừa mức cảm nhận, thấu hiểu của trình độ, hoàn cảnh của các em: giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc. Chúng sẽ đi vào và đọng lại trong kí ức tuổi thơ một cách hồn nhiên như âm vang trong trẻo truyền đi không bao giờ dứt của sông suối, núi rừng.

  Tấm lòng người mẹ của Hồng Thu gửi gắm trong ý động viên khích lệ trẻ em nghèo vượt khó. Dù nghèo khổ phải xin vào chùa làm chú tiểu từ bé, nhưng nhờ có ý chí vươn lên khổ học, tự học mà tiểu Hiền trở thành thần đồng, rồi thi đỗ Trạng Nguyên trong truyện thơ Trạng Hiền:

          Ở vùng Nam Định, thời Trần
         Vào chùa chú bé đã dần làm quen.
         Tiểu Hiền quét dọn, nhang đèn
       Xong xuôi công việc sư rèn chữ cho.
 
       Một học mười biết chẳng lo
       Không lâu tiếng đã nổi to - thần đồng.
.....
        Năm mười hai tuổi lớn khôn, nên Hiền
        Đi thi đỗ Trạng Nguyên liền
        Thấy Hiền loắt choắt, vua bèn hỏi nhanh:
        - Thầy nào đã dạy học hành?
        - Không ai dạy cả tôi đành tự lo
        Nhờ sư chỉ chữ khó cho.

    Là người mẹ hiện đại, Hồng Thu hiểu trẻ thơ nghèo muốn giỏi không chỉ có học chữ mà còn phải vận dụng vào đời sống thực tế. Vì thế tác giả lưu ý trẻ thơ ngay từ nhỏ cần gần gũi, làm quen, tham gia vừa sức vào công việc của gia đình, làng xóm: cày bừa, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, nấu ăn, hiểu biết những trò chơi dân gian của quê hương. Chính cái việc làm bình thường ấy khiến tình yêu gia đình, quê nhà của các em thêm cụ thể và sâu sắc. Những câu giải đố với quan, vua và sứ thần nước ngoài trong truyện thơ Em bé thông minh đã tạo nên tư thế tự tin đàng hoàng trong lời thơ và hình ảnh vẽ kèm theo với em bé:

        Thấy cha con họ miệt mài
        Hỏi ngay: - Ngày mấy đường cày vậy anh?
       Cha run, con trả lời nhanh:
        - Ngựa ngày mấy bước xin quan bảo cùng.
…   Giữa sân rồng bé khóc to,
       Vua nghe tiếng, thấy lạ cho mời vào.
        - Mẹ mất chẳng có em nào.
        - Giống đực không đẻ, làm sao mà đòi.
      
            - Bẩm vua, trâu đực ban rồi.
           Vua cười: - Ta thưởng làng người ăn chưa?

   Tri thức là sức mạnh. Sức mạnh ấy tạo nên thế cân bằng nếu không muốn nói là thắng thế của em bé qua biện pháp đố lại. Em đã chi phối cả vua lẫn quan: đẩy cả vua, quan vào tình thế bế tắc - gậy ông lại đập lưng ông.

         - Làng con ơn lộc của vua.
         Vua còn muốn thử nên đưa bảo làm
         Chim sẻ ba cỗ, khó kham
         Đưa kim bé bảo nhờ làm thành dao.

   Yêu con không phải là chiều chuộng mọi ý muốn ngang ngược, đành hanh vô lý của con; mà phải dạy dỗ bảo ban, hướng dẫn, động viên thậm chí nghiêm khắc để con nên người.

  Đặc biệt lòng thương xót những đứa trẻ những trẻ thơ bất hạnh - nạn nhân của chiến tranh - được Hồng Thu khắc họa trong khổ thơ về chiếc bóng trên vách ở truyện thơ Người thiếu phụ ở Nam Xương. Chiến tranh liên miên người chồng đi lính mãi chưa về. Đứa trẻ ra đời không hề biết mặt cha. Trẻ thơ nhỏ dại chỉ lờ mờ cảm nhận về cha qua một hình bóng người trên vách do người mẹ tạo nên để dỗ con trong các đêm dài chờ đợi:

        Tối con quấy khóc, cứ trông mẹ về.
        - Bố kia kìa! Hết khóc nhè.
         Thì ra, tối đến vỗ về yêu thương
         Chỉ bóng mình ở vách tường
         Đó là cách vợ đêm trường dỗ con.
    Lòng người vợ, người mẹ hay lòng Phạm Thị Hồng Thu? Ai có thể tách bạch được trong khổ thơ này? Chỉ biết rằng cảm xúc ấy không thể tìm thấy trong lời kể truyền miệng bằng văn xuôi trong sáng tác dân gian. Đối mặt với sự thật này, Trương Sinh có chảy nước mắt không? Mỗi người có thể hình dung một cách. Nhưng lời thơ đau đớn của Hồng Thu thực sự đã truyền cảm tới lòng người đọc.
  Thứ hai, đọc tập thơ, đâu đó ta nhận ra mục đích giáo dục trẻ thơ trong nhân cách một nhà giáo. Không phải bằng những kết luận cô đúc ngắn gọn; chẳng phải là những bài học luân lý quá quy phạm khô khan; mà là những lời thơ thấm thía, nhẹ nhàng như lời ru của bà của mẹ trong buổi trưa hè hay đêm đông để xua đi bao nóng bức và lạnh giá. Ngày nay, mỗi khi ta được tắm mát ở sông biển vào những ngày hè được trèo lên những dãy núi cao như đỉnh Phan Xi Păng - mái nhà của Tổ quốc để ngắm cảnh thiên nhiên bao la, được du lịch trên các con sông nổi tiếng như sông Hồng, Bạch Đằng giang, Cửu Long giang hùng vĩ…lẽ nào ta có thể không kính phục các vị Thần đã cùng Thần Trụ Trời tạo nên tất cả:
        Nơi Thần lấy đất đã đào 
        Sâu thành biển cả sóng trào mênh mông.
    …Đất trời phân rõ vuông tròn
        Các Thần khác nối tiếp công việc này.
        Thần sông, Thần Núi ngày ngày
        Thần Sao, Thần Biển chung tay góp vào.
       
        Các Ông đếm cát, kể sao, 
        Ông đã tát bể, Ông đào thành sông…
        Dân gian ca ngợi các Ông
        Những vị Thần giỏi, dân không quên Thần.

   Tình yêu thiên nhiên, ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường thiên nhiên núi, rừng, sông, biển, đất đai, nguồn nước… ở trẻ thơ đâu tự nhiên có được nếu không bắt đầu từ những câu thơ chan chứa lòng biết ơn công lao tạo dựng trời đất, vũ trụ của các vị thần mà ta thường gọi là Tạo hóa ấy. Đọc truyện thơ Thần Trụ Trời, trẻ thơ sẽ tưởng tượng một cách đáng yêu rằng: vũ trụ kì vĩ, thiên nhiên bao la quanh ta không phải là vật vô tri. Đó là những thực thể vũ trụ có xuất xứ, có sự nghiệp lao động sáng tạo, bền bỉ, kiên trì, trong sáng, vô tư, không kể công và không chờ ai báo đáp. Vũ trụ, thiên nhiên chính là hồn thiêng sông núi của dân tộc, sống mãi với chúng ta. Điều nhà thơ cảm nhận và cất lời ngợi ca sẽ có sức truyền cảm cho học sinh như thế.

  Trong thế kỷ 21 này, hơn bao giờ hết đồng tiền là thước đo sức khỏe nền kinh tế của một đất nước, một doanh nghiệp, một cá nhân. Nhưng nếu vì tiền mà bất chấp mọi thủ đoạn tham lam, độc ác, dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội, cho người khác, thậm chí đe dọa tính mạng chính bản thân mà không biết là một điều tuyệt đối không làm. Bài học được thể hiện trong những câu thơ bình luận đậm chất triết lý giản dị, dễ hiểu mà Hồng Thu muốn khuyên bảo các em ngay từ lúc còn thơ. Kết cục bị rơi xuống biển vì quá tham lam của người anh trong truyện Cây khế được đánh giá một cách xác đáng trong những dòng thơ:

       Lòng tham không đáy hoa rồ
       May chín gang túi tha hồ đựng đây.
       Chim đưa đến đảo vàng đầy
       Bàng hoàng hoa mắt, cả ngày trong hang.
     
…   Hắn chìm, chim quyết ngoi lên.
       “Tham thì thâm” đấy, hơi tiền dễ sa.
       Đồng tiền mờ mắt người ta,
       Lương tâm táng tận hóa ra hại mình.

   Sau này lớn lên những câu thơ của Hồng Thu kết hợp với trải nghiệm trong cuộc đời sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn một điều ít ai nghĩ cho thấu đáo: lòng tham chính là mầm mống của tội ác. Nó khiến con người nảy sinh tâm lý ghen ghét, đố kỵ với người khác và dẫn tới hành động tranh giành, cướp đoạt, hãm hại lẫn nhau. Ngược lại nếu biết cảm thông, nhường nhịn, chia sẻ thì con người sẽ có được tấm lòng nhân hậu, bao dung, độ lượng - một phẩm chất thiện lương vô cùng cao quý.

  Là nhà giáo, Hồng Thu thấm thía một điều: uy tín của người thầy và lòng biết ơn sâu sắc của học trò là một nét đẹp lý tưởng muôn đời vươn tới, nhưng không phải dễ gì có được. Hào quang tình thầy trò ấy đã được bất tử hóa trong truyện thơ Sự tích Đầm Mực của Hồng Thu. Danh tiếng thầy đồ nho Chu Văn An không chỉ khiến vua đời Trần nể trọng vời về kinh dạy cho Thái tử, mà còn vang vọng tới cả vị vua dưới nước:

          Thủy Tề nghe tiếng cho ngay
          Hai con lên học điều hay, thầy tài.
          Thuồng luồng trút lốt sớm mai,
          Học hành, sinh hoạt chẳng ai nghi ngờ.

  Thương dân lành khổ vì hạn hán kéo dài, năm ấy, Chu Văn An thuyết phục hai trò làm phép phun mưa, dù phải trái lệnh Ngọc Hoàng. Mục đích của thầy Chu Văn An là dạy dỗ học trò thành con người thương dân, thương nước. Thành công của hai trò con vua Thủy Tề là học để thành tài giúp ích cho dân, cho đời. Lý tưởng cao quý của thầy và trò đều được thực hiện bằng một việc làm rất đỗi trang nghiêm:

           - Luật trời nghiêm, trọng thầy hay.
           Cả ba ra bến sông bày bút nghiên.
           Em bưng nghiên mực cao lên
           Anh cầm bút vẩy mực trên nền trời.
 
           Mưa giăng mờ mịt, sống rồi.
           Ngọc hoàng nổi giận, Thiên Lôi thi hành.
           Thân trò hai mảnh, tìm quanh
           Xót thương, thầy với dân lành đưa tang.

  Đoạn thơ như tạc giữa không gian một cảnh tượng thiêng liêng, cao quý và bi tráng. Để có được trận mưa mang nước cho đồng ruộng đang cạn cháy vì hạn hán, thầy Chu Văn An cùng toàn thể dân làng có lẽ đã tuôn trào nước mắt như mưa, xót thương đầy ơn nghĩa trước thi hài của hai học trò vì cứu dân, cứu lúa mà phải chịu hình phạt tới mức thảm khốc, oan khiên. Vút lên từ cảnh tượng cao cả ấy là tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Đó là giai điệu độc đáo kết hợp giữa nhạc giao hưởng trầm hùng với nhạc ai điếu đau thương, nhằm thể hiện một cảm xúc đa chiều: vừa tự hào kiêu hãnh lại vừa quặn thắt, đau đớn, xót xa…

Thứ ba, nhân cách người mẹ, nhà giáo sở dĩ đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên, tế nhị như thế chính là bởi được kết hợp nhuần nhuyễn với tâm hồn của một nhà thơ. Biểu hiện đầu tiên ở hồn thơ Hồng Thu là tình yêu mãnh liệt của nhà thơ đối với truyện cổ và thiếu nhi nước Việt. Bản thân kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam đã hay rồi nhưng không thỏa mãn về hình thức nghe, kể, đọc truyện bằng ngôn ngữ văn xuôi: Hồng Thu muốn bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình bằng ngôn ngữ thơ trữ tình - một nhu cầu biểu cảm bức xúc tha thiết. Cái tôi tình yêu của nhà thơ muốn được giao cảm với tuổi thơ để nhận lại ở các em sự đồng điệu, đồng tình hay những phản ứng đa chiều, phong phú trước tinh hoa văn học của dân tộc. Từ đó, Hồng Thu có thể kích thích khát vọng sáng tạo của trẻ thơ. Đọc tập thơ Truyện cổ nước Việt các em sẽ hiểu rằng mỗi tác phẩm dân gian là một tư liệu, một tinh hoa văn học. Nó sẽ sống mãi với thời gian không chỉ đơn điệu bằng một thể loại truyện. Trên cơ sở cốt truyện, người nghệ sĩ tài năng có thể sáng tạo, tỏa hào quang của nó - để không bao giờ nó bị băng hoại bởi thời gian - bằng các thể loại khác như thơ, như các kịch bản sân khấu: kịch nói, chèo, múa rối nước… Thậm chí bằng các bộ môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, múa, âm nhạc…Thực tế cho thấy các vở chèo như Tấm Cám, vở tuồng Mị Châu, Trọng Thủy, vở kịch nói Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ chẳng đã là minh chứng cho lao động sáng tạo của người nghệ sĩ từ tích truyện cổ đó sao?

  Tiếp theo, chính tình yêu truyện cổ và trẻ thơ đã khiến Hồng Thu sáng tạo nên hình tượng thơ cụ thể, gần gũi, đáng yêu, sinh động hơn trên cơ sở truyện cổ. Đọc truyện thơ, mỗi người trong chúng ta từ già đến trẻ đều tìm thấy nét dáng nào đó của mình trong hình ảnh “chú Cuội”: thông minh, láu lỉnh, hay đùa trêu vui vẻ bằng cách nói dối người khác. Song nói dối chủ chủ yếu nhằm diễu cợt thói hư tật xấu của những người muốn có được “sách bày nói dối” để kiếm lợi như như chú thím Cuội; hoặc nhanh trí vừa trêu chọc người lạ qua đường “làm sáng mắt cho”, vừa thoát cái nạn bị chú thím nhốt sọt quẳng xuống sông, chứ nói dối không nhằm làm hại ai. Nét trẻ thơ rất có cá tính này được nhà thơ khắc họa bằng cảm xúc tán đồng vui vẻ ngay từ khổ đầu:

            Chú Cuội ngồi gốc cây đa
            Từ xưa đã có câu ca ấy rồi.
            Thông minh nhưng dối lừa người
            Thắng rồi Cuội khoái chí cười, không tha.

 Song, chính nét thông minh tinh nghịch này đã khiến Cuội rèn được óc suy nghĩ quan sát để tìm ra loại cây thuốc quý mà hổ mẹ cứu sống được khổ con trong rừng bằng cách “bứt lá nhai nhỏ, rịt đầy chỗ đau”:

            Đào cây Cuội vác về ngay
           Trồng trong sân, cứ hàng ngày chăm nom.
           Cuội nuôi hy vọng sớm hôm
           Hoàn sinh cải tử, cây luôn cứu người.

  Chỉ vì quên lời dặn, vợ Cuội không giữ gìn cho cây sạch sẽ - đem rác bẩn đổ vào gốc nên cây lung lay:

             Từ từ bật gốc, cây bay
             Cuội lo sấn đến giơ tay bám vào.
             Cây đưa Cuội mãi lên cao,
             Ở cung trăng, bạn với sao trên trời.

  Truyện thơ hấp dẫn chúng ta không chịu bởi chi tiết kỳ ảo của truyện cổ: cây lạ bay lên trời kéo theo chú Cuội tới tận cung trăng, làm bạn với sao trời. Lôi cuốn trẻ thơ chính là hình tượng chú Cuội như diễn viên xiếc vừa bám chặt gốc cây, vừa đu đưa giữa không trung, vừa bay tít lên cao mà không rơi, không ngã. Ý nghĩa sâu hơn còn ở chỗ hình tượng Cuội có sự phát triển. Trí thông minh bẩm sinh của chú bé Cuội không phí hoài vào những trò chơi đùa bản năng nữa khi trở thành chú Cuội thanh niên, trí thông minh ấy đã trở thành phẩm chất, trí tuệ, nó hướng Cuội vào khát vọng tìm tòi, khám phá, kiên trì và dũng cảm theo đuổi ước mơ khát vọng chân chính: có thể cải tử hoàn sinh cho con người. Cho tới thế kỷ 21 này, ước mơ của Cuội không còn là thành ngữ đầu lưỡi của dân gian là “nói dối như Cuội” nữa. Thực sự ước mơ ấy đã trở thành “nhiệm vụ tiên phong của khoa học hiện đại là đánh bại cái chết và ban cho con người tuổi trẻ vĩnh hằng”*.

  Hơn nữa, mờ nhạt đi ý nghĩa kỳ vĩ của một thực thể vũ trụ, trong khổ thơ cuối, trăng mãi mãi là một thắng cảnh du lịch mà chủ nhân là chú Cuội vô cùng hiếu khách - đặc biệt miễn phí cho trẻ thơ:

            Gốc đa chú Cuội vẫn ngồi,
            Muốn mời các bạn lên chơi nên chờ.
            Những ngày trăng sáng mộng mơ,
            Cuội mong về với trẻ thơ vui đùa.
  Có điều, cho đến nay, lời mời của chú Cuội vẫn là một thách đố bí ẩn, kích thích ước mơ bay được lên vầng trăng của trẻ thơ đất Việt. Tình yêu truyện cổ và tuổi thơ đất Việt có sức biến hóa kỳ ảo, khiến chủ thể trữ tình trong khổ cuối trở nên nhập nhòa ảo thuật thành chú Cuội - Hồng Thu. “Gốc đa…vẫn ngồi…mời các bạn lên chơi…mong trở về với trẻ thơ vui đùa” đâu phải tình yêu trẻ thơ của riêng chú Cuội? Ánh sáng, đường nét, cảnh và tình trong bức tranh thơ trong trẻo, tươi tắn, đằm thắm đến thế cơ mà!
  Chất trữ tình trong thơ Hồng Thu lắng đọng lại ở tâm hồn người đọc không chỉ bằng cảm hứng yêu truyện cổ và quý trẻ thơ mà còn với nghệ thuật thơ đa dạng mà hồn nhiên, giản dị như cách biểu đạt lời ăn tiếng nói của người lao động. Để lôi cuốn người đọc và thiếu nhi vào truyền thuyết li kì, phức tạp như Mị Châu, Trọng Thủy tác giả nêu bài học thức tỉnh ý thức dân tộc ngay từ khổ thơ đầu:
              Chuyện tình công chúa Mỵ Châu
              Vì yêu kết cục thảm sầu đớn đau.
              Chuyện còn nhắc nhở muôn sau
              Lợi ích dân tộc hàng đầu chớ quên.

   Cách mở truyện thơ như vậy chính là mũi tên chỉ đường cho suy nghĩ non nớt của trẻ em sau mỗi sự việc, tình tiết của truyện. Đồng thời nó là sợi dây chủ đề liên kết vừa mạch lạc, vừa chặt chẽ kết cấu của truyện này. Bài học mở đầu ấy sẽ giúp các em hiểu sâu hơn ý nghĩa việc làm của mỗi nhân vật trong truyện và sẽ nảy sinh tình cảm phù hợp: yêu, ghét, trân trọng hoặc cảm thương…

  Nghệ thuật mở truyện của Hồng Thu cũng đa dạng. Khác với truyện cổ văn xuôi, tác giả dân gian thường giới thiệu bằng câu kể quen thuộc, truyền thống như “ngày xửa ngày xưa… ở một làng nọ” hoặc “nhà nọ… có một người…” để xác định thời gian, không gian phiếm chỉ rất cổ tích, khiến chất hư ảo tăng lên đẩy xa câu chuyện vào cõi hồng hoang không thể nào xác định. Ngay ở khổ thơ đầu truyện Cóc kiện  Trời, Hồng Thu đã vận dụng kết hợp ca dao với câu hỏi tu từ:

               Con Cóc là cậu ông Trời
               Hễ ai đánh nó thì Trời đánh cho.
               Bạn có muốn biết nguyên do
               Vì sao con Cóc lại to hơn Trời?

  Nghệ thuật mở chuyện như thế đã biến lời thơ đơn phương của chủ thể trữ tình Hồng Thu thành cuộc trò chuyện, đối thoại hóm hỉnh, gợi trí tò mò cho người đọc, người nghe. Đồng thời làm tăng tâm thế háo hức của họ, dẫn họ chuyển sang phần thân truyện một cách tự nhiên, duyên dáng. Điểm đặc biệt nữa là từ đầu đến cuối tác giả không hề nêu thời gian quá khứ, địa điểm phiếm chỉ chung chung như trong truyện cổ văn xuôi. Câu chuyện của Hồng Thu như đang diễn ra cùng thời với người kể và người nghe trò chuyện. Bằng cách đó, nhà thơ đã kéo câu chuyện vô cùng cổ tích trở về gần hơn với hiện tại, chất hư ảo biến đi; trẻ thơ sẽ thích thú bởi các nhân vật Cóc, Cua, Gấu, Cọp, Cáo, Ong như những người bạn nhỏ rất thực, rất đáng yêu đang sống bên cạnh mình. Trẻ thơ sẽ cảm thấy hình như mình cũng đang hòa vào đoàn người đi kiện trời ấy, mình cũng góp phần vào chiến thắng. Cảm giác ấy thú vị biết bao! Có thể nói Hồng Thu, bằng nghệ thuật truyện thơ của mình đã hiện đại hóa cảm nhận người đọc đối với nhân vật cổ tích xa xưa.

  Trong truyện thơ của Hồng Thu có một số chi chi tiết truyện cổ được cảm nhận và hư cấu theo chiều hướng hiện đại hóa. Trong lời phán của vua Hùng ở truyện Bánh chưng, bánh giày, Hồng Thu đã lãng mạn hóa nhân vật vua Hùng bằng cách khéo léo kết hợp giữa nhận định truyền thống với lời bình gắn với cuộc sống hiện đại của dân tộc Việt:

                Bánh giày tròn trắng tượng trời
                Xôi đen giã nhuyễn chày đôi nhịp nhàng
                Bánh chưng tượng rất rõ ràng
                Lá dong xanh mướt gói càng chặt tay,
               
                Thơm lừng Mỹ Vị cỏ cây
                Muôn loài đùm bọc sum vầy bền lâu.
                Còn các lang mải đua nhau
                Sơn hào hải vị sẽ mau diệt nguồn,
               
                Chăm nghề nông ấm no luôn…

   Chi tiết này của truyện thơ không hề làm ảnh hưởng đến cốt truyện cổ, thậm chí còn tăng thêm ý nghĩa cho nó. Một mặt nó gắn với hiện tượng các loài thú quý hiếm như hổ, gấu, tê giác, voi, cá heo, rùa biển, sếu đầu đỏ…đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng bởi sự săn bắt vô tội vạ như “các lang mải đua nhau” trước kia, hay bất chấp luật bảo vệ môi trường như lâm tặc thời hiện đại. Từ đó, trẻ thơ sẽ tự có ý thức không chỉ yêu mến mà còn phải biết giữ gìn, bảo vệ sự sống của các loài động vật quý xung quanh chúng ta. Đồng thời, trẻ thơ càng biết ơn các vua Hùng, bởi Người không chỉ chọn đúng loại bánh dân tộc quý giá mà Người còn có tầm nhìn xa ngăn chặn các lang khỏi mắc tội “săn bắt mau diệt nguồn” các loài thú quý hiếm để làm ra “sơn hào hải vị”. Cho tới ngày nay, lời vua Hùng đã thành hiện thực, lúa gạo Việt Nam không chỉ đủ dùng cho nhân dân trong nước mà còn xuất khẩu ra thế giới với số lượng khá cao và giá thành ngày một nâng lên. Nghề nông truyền thống đang phát triển thành nông nghiệp xanh ở Việt Nam đã đi đúng hướng từ lời dạy của các vua Hùng. Lời thơ của Hồng Thu giúp thế hệ trẻ tự hào hơn với truyền thống văn hóa ẩm thực và nghề nghiệp chính của nhân dân ta từ xưa đến nay là nghề nông.

  Đặc biệt hấp dẫn là nghệ thuật kể chuyện của Hồng Thu đã tạo nên sự phá cách cho cảm hứng người đọc. Nếu trong truyện kể văn xuôi dân gian các tác giả chủ yếu tạo sự theo dõi xuyên suốt theo trình tự nguyên nhân => diễn biến => kết thúc của sự việc với nhân vật chính, thì đọc truyện thơ Sơn Tinh, Thủy Tinh, điều cuốn hút trẻ thơ là người và người đọc lại ở điểm khác. Đọc truyền thuyết độc giả thường thấy ghét Thủy Tinh - vị Thần Nước hàng năm gây bão lụt làm ngập ruộng đồng, nhà cửa gieo ta gọi cho cuộc sống muôn loài; và quý Sơn Tinh - vị Thần Núi giúp dân chống lũ lụt thắng lợi. Thì ở truyện thơ, vẫn cốt truyện cơ bản không thay đổi, song cảm hứng mà tác giả truyền cho chúng ta lại rất hiện đại. Không mở truyện bằng cách giới thiệu thời gian, không gian xảy ra sự việc và nhân vật tham gia vào đó rất truyền thống, mà tác giả giải thích ngay nguyên nhân xảy ra lũ lụt:

                Hàng năm bão lũ hoành hành,
                Vì yêu nên Thủy Tinh giành Mỵ Nương.
                Sơn Tinh kiên quyết không nhường
                Máu ghen càng nổi, bốn phương bão tràn.

      Như vậy mục đích giải thích hiện tượng tự nhiên và ngợi ca công cuộc chống lũ lụt của các vua Hùng không còn là chính nữa mà chủ yếu tác giả muốn thể hiện một cảm hứng sáng tạo vào câu chuyện tình muôn thuở giữa hai chàng trai cùng yêu một cô gái đẹp trong dân gian. Mà tình yêu, dù ở thời đại nào trong quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng diễn ra theo quy luật muôn đời bất biến.

  Hồng Thu hình như rất cảm thông và trân trọng nhân vật Thủy Tinh. Đây là điểm sáng tạo bởi cách nhìn mới trong cảm hứng của tác giả. Thủy Tinh được xuất hiện trong lượng câu chữ khá lớn của truyện thơ. Toàn bộ tác phẩm có 32 câu chia làm 8 khổ. Các nhân vật khác như vua Hùng, Mỵ Nương, ngay cả Sơn Tinh cũng đóng vai trò thứ yếu vì tất cả chỉ chiếm số lượng 18 câu. Riêng Thủy Tinh không chỉ xuất hiện xen kẽ với các nhân vật khác trong những câu thơ trên mà còn được dành hẳn 10 câu cuối cùng để kể miêu tả, nhận xét:

Hà Nội ngày 19/7/2023
TTH 

Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 4 đánh giá

Xếp hạng: 2.8 - 4 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây