Chu Minh Khôi
Phạm Thị Hồng Thu là Giáo viên đã nghỉ hưu, hiện sống tại Hà Nội, là Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Trước đó, chị đã từng xuất bản nhiều tác phẩm thơ, như: “Về miền nhớ”, “Sắc chiều”, “Trái tim thì thầm” đều được cấp phép bởi Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam. Ở tập thơ mới mang tên “Truyện cổ nước Việt” (NXB Phụ nữ Việt Nam) dày 228 trang này, Phạm Thị Hồng Thu “trình làng ”54 tác phẩm” chủ yếu là thơ lục bát.
Tôi đọc một mạch tập thi phẩm “Truyện cổ nước Việt” trong sự ngỡ ngàng mà đầy tâm đắc. Ngỡ ngàng là bởi, tuy đã từng có những truyện cổ tích được một vài tác giả khác chuyển thể thành thơ, nhưng đó chỉ là những thi phẩm đơn lẻ. Có thể nói đây là lần đầu tiên, hầu hết các truyện trong kho tàng cổ tích, sự tích dân gian của Việt Nam đã được sáng tác lại dưới thể loại thơ. Tâm đắc, bởi đây là một hành trình sáng tác có thể nhận định rằng “rất công phu”, mà từ trước tới nay, hiếm thấy tác giả nào ở nước ta làm được.
Trong Tuyển tập thi phẩm “Truyện cổ nước Việt”, đọc thấy ở đây lối kể truyện mộc mạc, chân phương như ca dao tục ngữ. Đặc biệt trong những bài thơ chuyển thể cổ tích, sự tích như: Thần trụ trời; Sự tích cây lúa; Con rồng cháu tiên; Sơn tinh Thủy tinh; Bánh chưng bánh dày; Chử Đồng Tử; Sự tích trầu cau; Sự tích quả dưa hấu; Sự tích Hồ Gươm; Sự tích người làm chúa muôn loài; Sự tích bàn chân lõm; Sự tích Táo quân; Tấm Cám; Cóc kiện trời; Sự tích cây nêu; Sự tích ông Ba Mươi; Cây khế; Sự tích cái chổi; Sự tích ông bình vôi; Sự tích con tằm; Sự tích con chim cuốc; Sự tích con khỉ; Sự tích Đầm Mực; Chú Cuội; Sự tích chiếc kèn môi; Sự tích chim tu hú; Sự tích sông Nhà Bè; Cây tre trăm đốt; Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Mồ côi xử kiện; Đeo chuông cho mèo; Trí khôn của ta đây; Đẽo cày giữa đường; Thầy bói xem voi; Lợn cưới áo mới; Thà chết còn hơn; Con rắn vuông; Sao đắt thế; Thi vẽ nhanh; Kiến giết voi…
Kể chuyện bằng thơ, Phạm Thị Hồng Thu chuyển thể gần như nguyên vẹn các chi tiết trong kho tàng văn học dân gian được người xưa truyền lại, sang thơ lục bát giúp cho độc giả ở độ tuổi thiếu nhi dễ đọc, dễ thuộc lòng. Người lớn đọc cũng sẽ thấy thuận tai.
Sự kết tinh của hồn vía đất đai, sức lao động của con người, tình đoàn kết xóm làng, tính cố kết cộng đồng dân tộc được kết tụ thành chiếc bánh chưng thảo thơm hương vị:
Cảo thơm lần giở, ta cảm nhận trong Tuyển tập của Phạm Thị Hồng Thu chất sử thi hào sảng ẩn hiện trong nhiều tác phẩm: Thánh Gióng; Mỵ Châu - Trọng Thủy; Huyền Quang; Sự tích thành Lồi; Khổng Lồ đúc chuông; Trạng Hiền; Em bé thông minh; Người thiếu phụ ở Nam Xương; Từ Thức…
Thi phẩm “Chử Đồng Tử” kết thúc bằng hình ảnh linh dị đầy cảm khái, thể hiện khát vọng bay lên của muôn đời người dân nước ta:
Trong thi phẩm “Huyền Quang”, “Ngày xưa xứ Bắc, thời Trần/Quốc sư tài giỏi muôn phần - Huyền Quang”, hình ảnh một vị quốc sư sinh ra từ nhà nghèo khó, nhưng trí tuệ cao rộng, đã vượt qua mọi nghịch cảnh để học thành tài. Đến khi đỗ đạt, mọi chuyển xoay ngược một trăm tám mươi độ:
Riêng bảo khí thứ tư là chiếc chuông to khổng lồ, khi đánh tiếng vang xa đến tận kinh đô nhà Tống. Trâu vàng trong sân của nhà Tống nghe tiếng chuông, tưởng mẹ gọi, liền chạy sang nước Đại Việt. Lo ngại tiếng chuông đồng mới đúc sẽ thu hút hết vàng của bốn phương chạy đến, sư Khổng Lồ bèn ném chiếc chuông xuống Hồ Tây. Từ đó đến nay, dân gian còn lưu truyền rằng, dưới đáy Hồ Tây còn chiếc chuồng đồng do sư Khổng Lồ đúc thời xưa:
Tướng Lồi tự tin vì mình đến trước, đã đắp thành rất vững, nên chấp nhận giao kết mà Đoàn Nhữ Hài đưa ra. Nào ngờ, đêm đến, nhìn sang bên phía quân Đại Việt thấy “Tường cao mấy trượng, có đài vọng lâu/ Cửa nhà san sát tươi màu/ Ngựa voi, quân lính ở đâu bạt ngàn”.
Điều đáng ghi nhận, tác giả Phạm Thị Hồng Thu đã cố gắng tiếp cận những thủ pháp thơ của tiền nhân, cùng với đó là chất sử thi hào sảng và lồng lộng trong mỗi con chữ, đã nâng chất cho thể loại truyện kể dân gian, vốn mộc mạc như người dân nghìn đời xứ sở Đại Việt. Đó là điều rất đáng ghi nhận trong Tác phẩm mới nhất này của nhà thơ .
CMK
Một tâm hồn phức điệu qua tập thơ Truyện cổ nước Việt
của Phạm Thị Hồng Thu
Đọc Truyện cổ nước Việt - tập truyện thơ dành cho thiếu nhi của Phạm Thị Hồng Thu (Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, năm 2003), là người từng làm công tác giáo dục trong trường phổ thông, tôi thấy sáng tác của Hồng Thu chứa đựng một tâm hồn phức điệu: Có ba nhân cách trong một con người và nhân cách nào cũng khiến tôi cảm động và yêu mến. Đồng thời nó bộc lộ sự phong phú, uyển chuyển trong cảm hứng và nghệ thuật của tác phẩm thơ.
Trước hết, tập truyện thơ của Hồng Thu đã làm toát lên nhân cách của một người mẹ Việt Nam. Đã là người mẹ thì yêu thương con là bản chất tự nhiên, tất nhiên. Song, ở Hồng Thu, độc giả mà cô hướng tới nhiều hơn đó là những trẻ em nghèo còn nhiều thiếu thốn, vất vả cả vật chất lẫn tinh thần. Đó là những trẻ thơ ở các vùng nông thôn hẻo lánh, nơi rừng núi xa xôi, thiếu sách giáo khoa, vở viết, đồ dùng học tập, phương tiện truyền thông quá nghèo nàn: không truyền hình, không máy tính, không điện thoại thông minh. Nhà ở của các em cách xa trường hàng mấy cây số, muốn đến lớp phải trèo đèo, lội suối, băng rừng... Trường học chỉ là mấy nhà nứa, nhà tranh sơ sài, một thầy hoặc một cô giáo phải dạy mấy lớp khác nhau (lớp 1, lớp 2, lớp 3...) trong một phòng học nhỏ, cheo leo trên sườn núi. Có nhiều em muốn được học phải trú lại trường hàng tuần chỉ về nhà một ngày lại lên, để xin bố mẹ lương thực, thực phẩm, mà đồ ăn cũng chỉ có ngô và rau cải là chính.
Vì thế, những truyện thơ chuyển thể từ truyện cổ dân gian Việt Nam của Hồng Thu đều vừa mức cảm nhận, thấu hiểu của trình độ, hoàn cảnh của các em: giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc. Chúng sẽ đi vào và đọng lại trong kí ức tuổi thơ một cách hồn nhiên như âm vang trong trẻo truyền đi không bao giờ dứt của sông suối, núi rừng.
Tấm lòng người mẹ của Hồng Thu gửi gắm trong ý động viên khích lệ trẻ em nghèo vượt khó. Dù nghèo khổ phải xin vào chùa làm chú tiểu từ bé, nhưng nhờ có ý chí vươn lên khổ học, tự học mà tiểu Hiền trở thành thần đồng, rồi thi đỗ Trạng Nguyên trong truyện thơ Trạng Hiền:
Là người mẹ hiện đại, Hồng Thu hiểu trẻ thơ nghèo muốn giỏi không chỉ có học chữ mà còn phải vận dụng vào đời sống thực tế. Vì thế tác giả lưu ý trẻ thơ ngay từ nhỏ cần gần gũi, làm quen, tham gia vừa sức vào công việc của gia đình, làng xóm: cày bừa, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, nấu ăn, hiểu biết những trò chơi dân gian của quê hương. Chính cái việc làm bình thường ấy khiến tình yêu gia đình, quê nhà của các em thêm cụ thể và sâu sắc. Những câu giải đố với quan, vua và sứ thần nước ngoài trong truyện thơ Em bé thông minh đã tạo nên tư thế tự tin đàng hoàng trong lời thơ và hình ảnh vẽ kèm theo với em bé:
Tri thức là sức mạnh. Sức mạnh ấy tạo nên thế cân bằng nếu không muốn nói là thắng thế của em bé qua biện pháp đố lại. Em đã chi phối cả vua lẫn quan: đẩy cả vua, quan vào tình thế bế tắc - gậy ông lại đập lưng ông.
Yêu con không phải là chiều chuộng mọi ý muốn ngang ngược, đành hanh vô lý của con; mà phải dạy dỗ bảo ban, hướng dẫn, động viên thậm chí nghiêm khắc để con nên người.
Đặc biệt lòng thương xót những đứa trẻ những trẻ thơ bất hạnh - nạn nhân của chiến tranh - được Hồng Thu khắc họa trong khổ thơ về chiếc bóng trên vách ở truyện thơ Người thiếu phụ ở Nam Xương. Chiến tranh liên miên người chồng đi lính mãi chưa về. Đứa trẻ ra đời không hề biết mặt cha. Trẻ thơ nhỏ dại chỉ lờ mờ cảm nhận về cha qua một hình bóng người trên vách do người mẹ tạo nên để dỗ con trong các đêm dài chờ đợi:
Tình yêu thiên nhiên, ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường thiên nhiên núi, rừng, sông, biển, đất đai, nguồn nước… ở trẻ thơ đâu tự nhiên có được nếu không bắt đầu từ những câu thơ chan chứa lòng biết ơn công lao tạo dựng trời đất, vũ trụ của các vị thần mà ta thường gọi là Tạo hóa ấy. Đọc truyện thơ Thần Trụ Trời, trẻ thơ sẽ tưởng tượng một cách đáng yêu rằng: vũ trụ kì vĩ, thiên nhiên bao la quanh ta không phải là vật vô tri. Đó là những thực thể vũ trụ có xuất xứ, có sự nghiệp lao động sáng tạo, bền bỉ, kiên trì, trong sáng, vô tư, không kể công và không chờ ai báo đáp. Vũ trụ, thiên nhiên chính là hồn thiêng sông núi của dân tộc, sống mãi với chúng ta. Điều nhà thơ cảm nhận và cất lời ngợi ca sẽ có sức truyền cảm cho học sinh như thế.
Trong thế kỷ 21 này, hơn bao giờ hết đồng tiền là thước đo sức khỏe nền kinh tế của một đất nước, một doanh nghiệp, một cá nhân. Nhưng nếu vì tiền mà bất chấp mọi thủ đoạn tham lam, độc ác, dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội, cho người khác, thậm chí đe dọa tính mạng chính bản thân mà không biết là một điều tuyệt đối không làm. Bài học được thể hiện trong những câu thơ bình luận đậm chất triết lý giản dị, dễ hiểu mà Hồng Thu muốn khuyên bảo các em ngay từ lúc còn thơ. Kết cục bị rơi xuống biển vì quá tham lam của người anh trong truyện Cây khế được đánh giá một cách xác đáng trong những dòng thơ:
Sau này lớn lên những câu thơ của Hồng Thu kết hợp với trải nghiệm trong cuộc đời sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn một điều ít ai nghĩ cho thấu đáo: lòng tham chính là mầm mống của tội ác. Nó khiến con người nảy sinh tâm lý ghen ghét, đố kỵ với người khác và dẫn tới hành động tranh giành, cướp đoạt, hãm hại lẫn nhau. Ngược lại nếu biết cảm thông, nhường nhịn, chia sẻ thì con người sẽ có được tấm lòng nhân hậu, bao dung, độ lượng - một phẩm chất thiện lương vô cùng cao quý.
Là nhà giáo, Hồng Thu thấm thía một điều: uy tín của người thầy và lòng biết ơn sâu sắc của học trò là một nét đẹp lý tưởng muôn đời vươn tới, nhưng không phải dễ gì có được. Hào quang tình thầy trò ấy đã được bất tử hóa trong truyện thơ Sự tích Đầm Mực của Hồng Thu. Danh tiếng thầy đồ nho Chu Văn An không chỉ khiến vua đời Trần nể trọng vời về kinh dạy cho Thái tử, mà còn vang vọng tới cả vị vua dưới nước:
Thương dân lành khổ vì hạn hán kéo dài, năm ấy, Chu Văn An thuyết phục hai trò làm phép phun mưa, dù phải trái lệnh Ngọc Hoàng. Mục đích của thầy Chu Văn An là dạy dỗ học trò thành con người thương dân, thương nước. Thành công của hai trò con vua Thủy Tề là học để thành tài giúp ích cho dân, cho đời. Lý tưởng cao quý của thầy và trò đều được thực hiện bằng một việc làm rất đỗi trang nghiêm:
Đoạn thơ như tạc giữa không gian một cảnh tượng thiêng liêng, cao quý và bi tráng. Để có được trận mưa mang nước cho đồng ruộng đang cạn cháy vì hạn hán, thầy Chu Văn An cùng toàn thể dân làng có lẽ đã tuôn trào nước mắt như mưa, xót thương đầy ơn nghĩa trước thi hài của hai học trò vì cứu dân, cứu lúa mà phải chịu hình phạt tới mức thảm khốc, oan khiên. Vút lên từ cảnh tượng cao cả ấy là tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Đó là giai điệu độc đáo kết hợp giữa nhạc giao hưởng trầm hùng với nhạc ai điếu đau thương, nhằm thể hiện một cảm xúc đa chiều: vừa tự hào kiêu hãnh lại vừa quặn thắt, đau đớn, xót xa…
Thứ ba, nhân cách người mẹ, nhà giáo sở dĩ đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên, tế nhị như thế chính là bởi được kết hợp nhuần nhuyễn với tâm hồn của một nhà thơ. Biểu hiện đầu tiên ở hồn thơ Hồng Thu là tình yêu mãnh liệt của nhà thơ đối với truyện cổ và thiếu nhi nước Việt. Bản thân kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam đã hay rồi nhưng không thỏa mãn về hình thức nghe, kể, đọc truyện bằng ngôn ngữ văn xuôi: Hồng Thu muốn bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình bằng ngôn ngữ thơ trữ tình - một nhu cầu biểu cảm bức xúc tha thiết. Cái tôi tình yêu của nhà thơ muốn được giao cảm với tuổi thơ để nhận lại ở các em sự đồng điệu, đồng tình hay những phản ứng đa chiều, phong phú trước tinh hoa văn học của dân tộc. Từ đó, Hồng Thu có thể kích thích khát vọng sáng tạo của trẻ thơ. Đọc tập thơ Truyện cổ nước Việt các em sẽ hiểu rằng mỗi tác phẩm dân gian là một tư liệu, một tinh hoa văn học. Nó sẽ sống mãi với thời gian không chỉ đơn điệu bằng một thể loại truyện. Trên cơ sở cốt truyện, người nghệ sĩ tài năng có thể sáng tạo, tỏa hào quang của nó - để không bao giờ nó bị băng hoại bởi thời gian - bằng các thể loại khác như thơ, như các kịch bản sân khấu: kịch nói, chèo, múa rối nước… Thậm chí bằng các bộ môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, múa, âm nhạc…Thực tế cho thấy các vở chèo như Tấm Cám, vở tuồng Mị Châu, Trọng Thủy, vở kịch nói Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ chẳng đã là minh chứng cho lao động sáng tạo của người nghệ sĩ từ tích truyện cổ đó sao?
Tiếp theo, chính tình yêu truyện cổ và trẻ thơ đã khiến Hồng Thu sáng tạo nên hình tượng thơ cụ thể, gần gũi, đáng yêu, sinh động hơn trên cơ sở truyện cổ. Đọc truyện thơ, mỗi người trong chúng ta từ già đến trẻ đều tìm thấy nét dáng nào đó của mình trong hình ảnh “chú Cuội”: thông minh, láu lỉnh, hay đùa trêu vui vẻ bằng cách nói dối người khác. Song nói dối chủ chủ yếu nhằm diễu cợt thói hư tật xấu của những người muốn có được “sách bày nói dối” để kiếm lợi như như chú thím Cuội; hoặc nhanh trí vừa trêu chọc người lạ qua đường “làm sáng mắt cho”, vừa thoát cái nạn bị chú thím nhốt sọt quẳng xuống sông, chứ nói dối không nhằm làm hại ai. Nét trẻ thơ rất có cá tính này được nhà thơ khắc họa bằng cảm xúc tán đồng vui vẻ ngay từ khổ đầu:
Song, chính nét thông minh tinh nghịch này đã khiến Cuội rèn được óc suy nghĩ quan sát để tìm ra loại cây thuốc quý mà hổ mẹ cứu sống được khổ con trong rừng bằng cách “bứt lá nhai nhỏ, rịt đầy chỗ đau”:
Chỉ vì quên lời dặn, vợ Cuội không giữ gìn cho cây sạch sẽ - đem rác bẩn đổ vào gốc nên cây lung lay:
Truyện thơ hấp dẫn chúng ta không chịu bởi chi tiết kỳ ảo của truyện cổ: cây lạ bay lên trời kéo theo chú Cuội tới tận cung trăng, làm bạn với sao trời. Lôi cuốn trẻ thơ chính là hình tượng chú Cuội như diễn viên xiếc vừa bám chặt gốc cây, vừa đu đưa giữa không trung, vừa bay tít lên cao mà không rơi, không ngã. Ý nghĩa sâu hơn còn ở chỗ hình tượng Cuội có sự phát triển. Trí thông minh bẩm sinh của chú bé Cuội không phí hoài vào những trò chơi đùa bản năng nữa khi trở thành chú Cuội thanh niên, trí thông minh ấy đã trở thành phẩm chất, trí tuệ, nó hướng Cuội vào khát vọng tìm tòi, khám phá, kiên trì và dũng cảm theo đuổi ước mơ khát vọng chân chính: có thể cải tử hoàn sinh cho con người. Cho tới thế kỷ 21 này, ước mơ của Cuội không còn là thành ngữ đầu lưỡi của dân gian là “nói dối như Cuội” nữa. Thực sự ước mơ ấy đã trở thành “nhiệm vụ tiên phong của khoa học hiện đại là đánh bại cái chết và ban cho con người tuổi trẻ vĩnh hằng”*.
Hơn nữa, mờ nhạt đi ý nghĩa kỳ vĩ của một thực thể vũ trụ, trong khổ thơ cuối, trăng mãi mãi là một thắng cảnh du lịch mà chủ nhân là chú Cuội vô cùng hiếu khách - đặc biệt miễn phí cho trẻ thơ:
Cách mở truyện thơ như vậy chính là mũi tên chỉ đường cho suy nghĩ non nớt của trẻ em sau mỗi sự việc, tình tiết của truyện. Đồng thời nó là sợi dây chủ đề liên kết vừa mạch lạc, vừa chặt chẽ kết cấu của truyện này. Bài học mở đầu ấy sẽ giúp các em hiểu sâu hơn ý nghĩa việc làm của mỗi nhân vật trong truyện và sẽ nảy sinh tình cảm phù hợp: yêu, ghét, trân trọng hoặc cảm thương…
Nghệ thuật mở truyện của Hồng Thu cũng đa dạng. Khác với truyện cổ văn xuôi, tác giả dân gian thường giới thiệu bằng câu kể quen thuộc, truyền thống như “ngày xửa ngày xưa… ở một làng nọ” hoặc “nhà nọ… có một người…” để xác định thời gian, không gian phiếm chỉ rất cổ tích, khiến chất hư ảo tăng lên đẩy xa câu chuyện vào cõi hồng hoang không thể nào xác định. Ngay ở khổ thơ đầu truyện Cóc kiện Trời, Hồng Thu đã vận dụng kết hợp ca dao với câu hỏi tu từ:
Nghệ thuật mở chuyện như thế đã biến lời thơ đơn phương của chủ thể trữ tình Hồng Thu thành cuộc trò chuyện, đối thoại hóm hỉnh, gợi trí tò mò cho người đọc, người nghe. Đồng thời làm tăng tâm thế háo hức của họ, dẫn họ chuyển sang phần thân truyện một cách tự nhiên, duyên dáng. Điểm đặc biệt nữa là từ đầu đến cuối tác giả không hề nêu thời gian quá khứ, địa điểm phiếm chỉ chung chung như trong truyện cổ văn xuôi. Câu chuyện của Hồng Thu như đang diễn ra cùng thời với người kể và người nghe trò chuyện. Bằng cách đó, nhà thơ đã kéo câu chuyện vô cùng cổ tích trở về gần hơn với hiện tại, chất hư ảo biến đi; trẻ thơ sẽ thích thú bởi các nhân vật Cóc, Cua, Gấu, Cọp, Cáo, Ong như những người bạn nhỏ rất thực, rất đáng yêu đang sống bên cạnh mình. Trẻ thơ sẽ cảm thấy hình như mình cũng đang hòa vào đoàn người đi kiện trời ấy, mình cũng góp phần vào chiến thắng. Cảm giác ấy thú vị biết bao! Có thể nói Hồng Thu, bằng nghệ thuật truyện thơ của mình đã hiện đại hóa cảm nhận người đọc đối với nhân vật cổ tích xa xưa.
Trong truyện thơ của Hồng Thu có một số chi chi tiết truyện cổ được cảm nhận và hư cấu theo chiều hướng hiện đại hóa. Trong lời phán của vua Hùng ở truyện Bánh chưng, bánh giày, Hồng Thu đã lãng mạn hóa nhân vật vua Hùng bằng cách khéo léo kết hợp giữa nhận định truyền thống với lời bình gắn với cuộc sống hiện đại của dân tộc Việt:
Chi tiết này của truyện thơ không hề làm ảnh hưởng đến cốt truyện cổ, thậm chí còn tăng thêm ý nghĩa cho nó. Một mặt nó gắn với hiện tượng các loài thú quý hiếm như hổ, gấu, tê giác, voi, cá heo, rùa biển, sếu đầu đỏ…đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng bởi sự săn bắt vô tội vạ như “các lang mải đua nhau” trước kia, hay bất chấp luật bảo vệ môi trường như lâm tặc thời hiện đại. Từ đó, trẻ thơ sẽ tự có ý thức không chỉ yêu mến mà còn phải biết giữ gìn, bảo vệ sự sống của các loài động vật quý xung quanh chúng ta. Đồng thời, trẻ thơ càng biết ơn các vua Hùng, bởi Người không chỉ chọn đúng loại bánh dân tộc quý giá mà Người còn có tầm nhìn xa ngăn chặn các lang khỏi mắc tội “săn bắt mau diệt nguồn” các loài thú quý hiếm để làm ra “sơn hào hải vị”. Cho tới ngày nay, lời vua Hùng đã thành hiện thực, lúa gạo Việt Nam không chỉ đủ dùng cho nhân dân trong nước mà còn xuất khẩu ra thế giới với số lượng khá cao và giá thành ngày một nâng lên. Nghề nông truyền thống đang phát triển thành nông nghiệp xanh ở Việt Nam đã đi đúng hướng từ lời dạy của các vua Hùng. Lời thơ của Hồng Thu giúp thế hệ trẻ tự hào hơn với truyền thống văn hóa ẩm thực và nghề nghiệp chính của nhân dân ta từ xưa đến nay là nghề nông.
Đặc biệt hấp dẫn là nghệ thuật kể chuyện của Hồng Thu đã tạo nên sự phá cách cho cảm hứng người đọc. Nếu trong truyện kể văn xuôi dân gian các tác giả chủ yếu tạo sự theo dõi xuyên suốt theo trình tự nguyên nhân => diễn biến => kết thúc của sự việc với nhân vật chính, thì đọc truyện thơ Sơn Tinh, Thủy Tinh, điều cuốn hút trẻ thơ là người và người đọc lại ở điểm khác. Đọc truyền thuyết độc giả thường thấy ghét Thủy Tinh - vị Thần Nước hàng năm gây bão lụt làm ngập ruộng đồng, nhà cửa gieo ta gọi cho cuộc sống muôn loài; và quý Sơn Tinh - vị Thần Núi giúp dân chống lũ lụt thắng lợi. Thì ở truyện thơ, vẫn cốt truyện cơ bản không thay đổi, song cảm hứng mà tác giả truyền cho chúng ta lại rất hiện đại. Không mở truyện bằng cách giới thiệu thời gian, không gian xảy ra sự việc và nhân vật tham gia vào đó rất truyền thống, mà tác giả giải thích ngay nguyên nhân xảy ra lũ lụt:
Như vậy mục đích giải thích hiện tượng tự nhiên và ngợi ca công cuộc chống lũ lụt của các vua Hùng không còn là chính nữa mà chủ yếu tác giả muốn thể hiện một cảm hứng sáng tạo vào câu chuyện tình muôn thuở giữa hai chàng trai cùng yêu một cô gái đẹp trong dân gian. Mà tình yêu, dù ở thời đại nào trong quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng diễn ra theo quy luật muôn đời bất biến.
Hồng Thu hình như rất cảm thông và trân trọng nhân vật Thủy Tinh. Đây là điểm sáng tạo bởi cách nhìn mới trong cảm hứng của tác giả. Thủy Tinh được xuất hiện trong lượng câu chữ khá lớn của truyện thơ. Toàn bộ tác phẩm có 32 câu chia làm 8 khổ. Các nhân vật khác như vua Hùng, Mỵ Nương, ngay cả Sơn Tinh cũng đóng vai trò thứ yếu vì tất cả chỉ chiếm số lượng 18 câu. Riêng Thủy Tinh không chỉ xuất hiện xen kẽ với các nhân vật khác trong những câu thơ trên mà còn được dành hẳn 10 câu cuối cùng để kể miêu tả, nhận xét:
Hà Nội ngày 19/7/2023
TTH
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn