Đền Bộ đầu và di tích Hưng Đạo đại vương

Thứ tư - 14/09/2022 08:12
Ảnh: ST
Ảnh: ST
PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
Kế tự truyền tôn, rực rỡ mấy ngàn Thu
Họ Trần Đặng anh hùng vang lừng ba bẩy cõi.
                                                           (Câu đối)
Đền có tền chữ là “Sơn Hải linh từ”, tọa lạc tại số 16, ngõ 53, đường
Bạch Đằng, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa
kia, di tích gắn với địa danh thôn Cơ Xá, tổng Tả Túc, huyện Thọ Xương, phủ
Hoài Đức.
Di tích nằm ở vị trí cửa ngõ sông nước phía Đông một vùng đất chiến
lược từ lâu đời ở kinh đô Thăng Long. Đền trông ra sông Nhị Hà, gần khu vực
Bến Đông, tức Đông Bộ Đầu nơi diễn ra trận “quyết chiến chiến lược” đánh
đuổi quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ nhất ra khỏi Thăng Long ngày
29/01/1258. Các nguồn tư liệu thư tịch cổ cho biết. Đền được các cư dân vạn
chài làng Thủy Cơ xây dựng vào thế kỷ XIX, di tích được trùng tu, tôn tạo liên
tục vào các năm Kỷ Dậu (1969), Giáp Tý (1984), trên cơ sở vị trí và khuôn viên
cũ, để lại qui mô kiến trúc như hiện nay gồm: Nghi môn, sân vườn, khu kiến
trúc chính và điện thờ Mẫu với kiểu dáng kiến trúc truyền thống.
Đền Sơn Hải thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn, vị anh hùng dân tộc đã lãnh đạo quân dân nhà Trần ba lần chiến thắng
quân Nguyên Mông, bảo vệ được bờ cõi. Ông không những là người có tài thao
lược, trí dũng song toàn mà còn luôn đặt lợi ích của dân tộc, của quốc gia lên
trên hết. Ông đã giành cả tâm sức của mình viết “Binh thư yếu lược”, “Vạn kiếp
tông bí truyền thư”, “Hịch tướng sĩ” để dạy các tướng cầm quân đánh giặc và
khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt. Quan điểm yêu nước, đoàn két
thương dân của ông: Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc, đó là thượng sách giữ nước…” luôn luôn là tư tưởng tiến bộ, là chân lý cho
mọi thời đại.
 
Ngoài chủ đề tín ngưỡng là thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và các tướng
lĩnh thời Trần như: Yết Kiêu, Dã Tượng có công chống giặc ngoại xâm ở thế kỷ
XIII, trong đền còn phối thờ “Trúc Lâm tam tổ” là: Trần Nhân Tông, Huyền
Quang Tôn giả và Pháp Loa.
Trần Nhân Tông (1258-1308), tên húy là Trần Khâm, miếu hiệu là Nhân
Tông. Ông làm vua được 14 năm (1279-1293), rồi đi tu ở núi Yên ử, đạo hiệu là
Trúc Lâm Đại Đầu Đà, là người đã khai sáng ra phái Trúc Lâm trong Phật giáo
Việt Nam, nên còn gọi là Trúc Lâm đệ nhất tổ.
Pháp Loa Tôn Giả (1284-1330), tên họ là Đồng Kiên Cương, hiệu là Pháp
Loa. Người làng Cửu La (sau là thôn Đồng Phá, phủ Nam Sách) tỉnh Hải
Dương. Năm Hưng Long thứ 12 (1204), Trần Nhân Tông lúc đó đang đi tu,
hoằng pháp tới phủ Nam Sách, gặp Kiên Cương, thấy người thông minh, liền
cho theo học đạo Phật và cho tu ở núi Kỳ Lân, lấy đạo hiệu là Pháp Hoa, bị
truyền y bát cho. Ông là tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm trị trì chùa. Vua
Trần Nhân Tông khi thị tịch năm 1308 cũng là ở chùa của ông núi Yên Tử.
Huyền Quang Tôn Giả (1254-1334), tên họ là Lý Đạo Tái, đạo hiệu là
Huyền Quang. Ông là người làng Vạn Tải, huyện Gia Định (Gia Binh), tỉnh Bắc
Ninh. Năm 19 tuổi, ông đỗ khoa Tam giáo đời Trần, làm quan ở triều đình một
thời gian, rồi về đi tu ở chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều được sư Pháp Loa và vua
Trần Nhân Tông rất trọng. Năm Đại Khánh thứ 4 (1370) trước khi mất, Pháp
Loa ddem y bát của Điều Ngự Giác Hoàng (tức vua Trần Nhân Tông) truyền
cho, giao lại cho Huyền Quang, Huyền Quang cũng kế tục trụ trì chùa ở núi
Yên Tử. Trở thành tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm.
Cùng phối thờ trong thần điền đền Sơn Hải còn có: Tam tòa Thánh Mẫu
và nhiều vị Thánh khác có liên quan đến tục thờ Thánh Mẫu một nét đặc trưng
của tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
14 3  Hình ảnh Trận Bạch Đằng

 
Bên cạnh ý nghĩa của một di sản kiến trúc tôn giáo, giá trị tiềm ẩn trong
đền Sơn Hải còn là các pho tượng Thánh, tượng Phật và tượng Mẫu cùng nhiều
hiện vật phong phú khác như: hương án, khám, ngai, kiệu thờ, hoành phi, câu
đối, cửa võng, cuốn thư…Đặc biệt, đạo sắc phong niên hiệu Khải Định thứ 9
(1924), đã minh chứng cho sự ra đời sớm của ngôi đền.
Đền do gia đình họ Trần gốc Tức Mạc, Nam Định, Thiên Trường xưa
trông nom từ lâu đời. Gia đình vạn chài lăng Đông Bộ Đầu có các thủ từ: Trần
Văn Sáng, Trần Văn Hai Đò, Trần Văn Hai, Trần Văn Sơn…Đầu thế kỷ XX và
khi Tây chưa chiếm Hà Thành, hội 5 vạn chài lớn lắm, hai bên bờ sông, hàng
ngàn người tham dự. 5 thuyền chở tượng Đức Thánh Trần, kiệu, bát hương,
coox mặn, chỗ chay, lọ lộc bình cùng phướng bát âm…rẽ sóng Nhị Hà sang đền
Bồ Đề (Gia Lâm) sau ả đoàn rước về quay 3 vòng trên sông, lấy chỗ nước trong
nhất về để cúng Thần, Thánh, Phật, Mẫu quanh năm. Gần đây vào dịp ngày
9/9/2010 kỷ niệm nghìn năm Thăng Long Hà Nội, phường Chương Dương cùng
Bản Đền tổ chức long trọng bằng ô tô đi đón Bằng xếp hạng Di tích LSVH tại
số 90 Hàng Bông, Thợ Nhuộm. Ô tô dừng đỗ ở ngã ba phố Hồng Hà, Chương
Dương Độ…Sau đó chuyển sang đoàn rước đi bộ rầm rộ qua phố Chương
Dương Độ, Bạch Đằng….rồi dừng ở đền Sơn Hải. Có lời phát biểu của các vị
lãnh đạo thành phố, quận, phường…
Hình thức văn nghệ phong phú: - Hát văn với giá về Cô Bơ, cô Chín, ông
Hoàng Bảy, Đức Thánh Trần. Có ngâm thơ về Bến sông Đông Bộ Đầu và cựu
chiến binh hát về Hoàng Sa, Trường Sa, anh lính Hải Quân.

Xin kết thúc bài văn bằng bài thơ của cố Thi sĩ Chế Lan Viên.
Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi và đánh giặc
Hưng Đạo Vương diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều và Đất Nước hóa thành VĂN….
 
VĂN HẬU
Hội VNDG Hà Nội
 
 
THAM KHẢO:
 
1. Tri Tân (số về Hưng Đạo Đại Vương)
3/10/1941 Trung tâm UNESCO HN 2000
2. Lịch sử Việt Nam – NXB KHXH 1971
3. Đền Sơn Hải YOUTUBE cô Tấm 2010
4. Lễ hội Thăng Long Hà Nội. PGS Lê Trung Vũ CB…NXB TN 2011
5. Trận Đông Bộ Đầu ĐT Đặng Việt Thủy 2018
6. Điền dã đền Sơn Hải, ghi chép qua cụ Vi (84 T), ông Ba (72 tuổi) Thủ tà
Trần Văn Sơn…(Khu Cầu Đất xưa)
7. Chú giải:
Bến Đông Bộ Đầu??? theo sách báo công bố cho là Bến ở dốc Hàng Than
gần cầu Long Biên, có người lại cho là từ dốc Hàng Than kéo xuống Ô Tây
Luông (gần nhà hát lớn Hà Nội…). Ngày 24/ chạp (21/01/1258) năm Nguyên
Phong thứ 7 đã diễn ra trận thủy chiến ác liệt để giải phóng kinh đô Thăng
Long. Qua khảo sát tại đền Sơn Hải, chúng tôi thấy Bến Đông Bộ Đầu có lẽ là
trước cửa Đền bên bờ sông Nhị Hà (sông Lô Giang trước đây). Năm Ất Tỵ
(1785) đã có 5 vạn chài là: Biện Dương, Đông Trạch, Lãng Hồ, Chúc Lãng và
Cơ Xá lập làng Đông Bộ Đầu. Theo bản đồ Hồng Đức năm 1490, bến đò làm
sao có thể dài đến 2km. Thường thường như Bến đò Chèm, Bến đò Xù ở Hà
Nội chỉ dài độ 30m-50m. Mong các nhà nghiên cứu trao đổi.

Nguồn tin: HNV

Tổng số điểm của bài viết là: 61 trong 13 đánh giá

Xếp hạng: 4.7 - 13 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây